TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 50/2022/HS-PT NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 18/2022/HSPT ngày 18/01/2022 đối với bị cáo Dương Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2021/HSST ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Dương Văn D - Sinh năm: 1998, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn Q và con bà Phùng Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: 01; tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 16/12/2013, bị Ủy ban nhân dân xã B ra Quyết định giáo dục tại xã về hành vi Trộm cắp tài sản;
Ngày 07/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bản án số 39/2015/HSST);
Ngày 28/10/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 43/2015/HSST);
Ngày 24/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 44/2015/HSST);
Ngày 04/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 47/2015/HSST);
Ngày 30/12/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 09 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Bản án 49/2015/HSST);
Tổng hợp 05 bản án, Dương Văn D phải chấp hành 49 tháng tù. Ngày 25/7/2019, chấp hành xong hình phạt;
Tiền án: Ngày 26/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 60/2019/HSST). Ngày 25/10/2020, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Hồng N, Trần Thị Như Q1, Bùi Thị Huyền D1 nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hồng N, Dương Văn D, Trần Thị Như Q1 và Bùi Thị Huyền D1 là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy loại Methamphetamine (hay còn gọi là ma túy đá).
Do không có việc làm ổn định nên ngày 10/7/2021 các bị cáo Nội, D, Q1 đã cùng thuê phòng trọ số 5 thuộc dãy trọ tại địa chỉ 120/40 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do ông Phạm Huy T, sinh năm 1960 và anh Phạm Huy L, sinh năm 1984, cùng trú tại 72 QT, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk làm chủ, để ở chung và mua ma túy về bán kiếm lời, với phương thức thủ đoạn: N liên hệ mua ma túy của một người phụ nữ tên P (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) sử dụng số thuê bao 09343xxx39 và 09640xxx48. Nguyễn Hồng N thanh toán tiền mua ma túy cho P qua số tài khoản 006410000xxxx001 Ngân hàng thương mại cổ phần Đ, chủ tài khoản là Nguyễn Thị Ý P, sinh năm 1993, trú tại Ấp 2, HP, GR, tỉnh Bạc Liêu, hiện đang cư trú tại 56/13 VC, phường L, quận TB, thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, P gửi ma túy về cho N qua đường giao hàng tiết kiệm (chưa xác định thông tin đơn vị liên quan) và đề số điện thoại người nhận là 091xxx7129 của Q1. Q1 nhận ma túy dưới dạng hàng bưu kiện thông qua người giao hàng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Sau khi có được ma túy thì N, D, Q1 cùng nhau phân nhỏ số ma túy nói trên, rồi cùng nhau bán lại nhiều lần cho nhiều người khác nhau (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) để thu lợi bất chính, mỗi lần bán từ 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) đến 1.200.000đ (một triệu hai trăm ngàn đồng).
Đến giữa tháng 7/2021 thì D1 đến ở chung và cùng tham gia bán ma túy với các bị cáo N, D, Q1. Những người nghiện sẽ liên lạc với N qua các số điện thoại 094xxx4043; 09429xxx93; 08794xxx47 hoặc D qua các số điện thoại 085xxx1903; 0948xxx517 để mua ma túy và hẹn địa điểm giao dịch. Sau đó, các bị cáo thay nhau đi giao ma túy, số tiền bán được các bị cáo đưa về cho N để sử dụng vào việc sinh hoạt cá nhân, ăn uống và tiếp tục mua ma túy. Trong khoảng thời gian từ ngày 10/7/2021 đến ngày 30/7/2021, Nguyễn Hồng N đã ba lần liên hệ mua ma túy đá của P, cụ thể:
- Lần 1: Khoảng thời gian ngày 10/7/2021, N mua hộp 5 ma túy đá với số tiền là 3.000.000đ (ba triệu đồng). Sau đó, từ ngày 10/7/2021 đến ngày 20/7/2021 các bị cáo N, D, Q1 bán 08 lần, cho nhiều người khác nhau (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) thu lợi bất chính số tiền 5.090.000đ (năm triệu không trăm chín mươi ngàn đồng).
- Lần 2: Khoảng ngày 20/7/2021, N mua hộp 10 ma túy đá với số tiền 5.200.000đ (Năm triệu hai trăm ngàn đồng). Các bị cáo N, D, Q1, D1 tiếp tục bán nhiều lần cho nhiều người khác nhau (chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Trong đó, ngày 28/7/2021 các bị cáo bán cho người tên H1 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) sử dụng số thuê bao 0878xxx373 số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) nhưng H1 chưa chuyển tiền. Ngày 29/7/2021 bán cho người tên A (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) có số thuê bao 0xxx513181, 4 số ma túy đá thu lợi 400.000đ (bốn trăm ngàn đồng). Trước đó, A đã mua 1 lần góc 8 ma túy đá, thu lợi 800.000đ (tám trăm ngàn đồng). Qua đó, thu lợi bất chính tổng số tiền 1.200.000đ (Một triệu hai trăm ngàn đồng).
- Lần 3: Ngày 30/7/2021, N mua 2 hộp mười ma túy đá với số tiền là 10.400.000đ (mười triệu bốn trăm ngàn đồng), thì được khuyến mãi thêm 01 viên ma túy dạng thuốc lắc. Các bị cáo phân số ma túy mua được thành nhiều gói nhỏ, cất giấu tại phòng trọ nêu trên. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, N, D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 47B1-540.95 đi đến trước khu vực hẻm 35 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk mang theo mỗi người 01 gói ma túy đá để bán. Cùng thời điểm trên, Q1 mang theo 01 gói ma túy đá để bán, cùng D1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Mioultim biển số 47B2-xxxxx đi đến địa điểm này thì bị Công an phường TT kiểm tra, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N, D và Q1 về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, thu giữ trên người N, D, Q1 mỗi người 01 gói ma túy (các bị cáo khai là ma túy để bán kiếm lời).
Tiến hành khám xét nơi ở của các bị cáo tại địa chỉ 120/40 Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tạm giữ: 7 gói ma túy đá, 01 gói chứa 01 viên nén màu xám được niêm phong trong 4 gói phong bì ký hiệu M1, M2, M3, M4 (Các bị cáo khai nhận là ma túy cất giấu để bán lại kiếm lời).
Tại bản kết luận giám định ma túy số 833/GĐMT-PC09 ngày 04/8/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:
- Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký Nguyễn Hồng N, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,0865gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký Dương Văn D, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 0,2023gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký Trần Thị Như Q1, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 0, 2743gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì M1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 0,6258gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì M2: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có khối lượng 5,2737gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì M3: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, có tổng khối lượng 9,6630gam, loại Methamphetamine.
- Phong bì M4: 01 viên nén màu xám là ma túy, có khối lượng 0,3780gam, loại MDMA.
Kèm theo kết luận giám định: Không;
Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu gồm:
Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký ghi tên của Nguyễn Hồng N, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 0,0732 gam.
Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký ghi tên của Dương Văn D, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 0,1810 gam.
Phong bì đựng mẫu vật có chữ ký ghi tên của Trần Thị Như Q1, Phan Thanh G, Nguyễn T1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 0,2285 gam.
Phong bì M1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 0,5981 gam. Phong bì M2: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 5,1604 gam. Phong bì M3: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng có khối lượng 9,2951 gam. Phong bì M4: Viên nén màu xám có khối lượng 0,984 gam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2021/HSST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hồng N, Dương Văn D, Trần Thị Như Q1 và Bùi Thị Huyền D1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt : Bị cáo Dương Văn D 10 (mười ) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/7/2021.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo N, Q1, D1, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/12/2021, bị cáo Dương Văn D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Dương Văn D giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Dương Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 10 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là thỏa đáng. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2021/HSST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Dương Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 30/7/2021 tại đường hẻm 35 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk. Tổ công tác Công an phường TT, thành phố B phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Hồng N, Dương Văn D, và Trần Thị Như Q1 có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, thu giữ 0,5631 gam ma túy loại Methamphetamine. Tiến hành khám xét nơi ở của các bị cáo thu giữ 15,5625 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,3780 gam MDMA (N, D, Q1 khai nhận là ma túy các bị cáo cất giấu nhằm bán lại kiếm lời). Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm; hành vi phạm tội của bị cáo đã gây tác hại xấu cho xã hội về nhiều mặt, gây mất trật tự trị an tại địa phương, đồng thời là nguyên nhân kéo theo nhiều tệ nạn khác cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Xét nhân thân của bị cáo có nhân thân rất xấu, ngày 26/11/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 25/10/2020, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống, bị cáo chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Văn D. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 378/2021/HS-ST ngày 07/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt : Bị cáo Dương Văn D 10 (mười ) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/7/2021.
[3] Về án phí: Bị cáo Dương Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 50/2022/HS-PT
Số hiệu: | 50/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về