Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 488/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 488/2023/HS-PT NGÀY 10/07/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 500/2023/TPT-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Chí C cùng các bị cáo khác phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Chí C, sinh năm 2001; Nơi cư trú: Thôn N, xã S, huyện H, tỉnh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học phổ thông: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1963 và con bà Lương Thị V, sinh năm 1964; Chung sống như vợ chồng với Trần Thị Lê N, sinh năm 2001; Bị cáo có 01 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 01 - Công an Thành phố Hà Nội.

2. Lê X K, sinh năm 1990; Nơi cư trú: tỉnh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học phổ thông: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê X H, sinh năm 1965 và con bà Dương Thị H; Vợ:

Hoàng Thị T, sinh năm 1992; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 168/2016/HSST ngày 20/12/2016 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ra trại 02/5/2018; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/9/2022 đến nay tại Trại tạm giam số 01 - Công an Thành phố Hà Nội.

3. Đặng Quang G, sinh năm 1990; Nơi cư trú: tỉnh H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học phổ thông: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đặng Quang T và con bà Vũ Thị L, sinh năm 1966; Vợ: Nghiêm Thị T, sinh năm 1998; có 03 con, sinh năm 2016, năm 2018 và 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 72/2022/HSST ngày 29/9/2022 Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 22/3/2023. Bị cáo bị tạm giam trong vụ án này từ ngày 22/3/2023 cho đến nay tại trại giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội.

4. Bùi Thị X, sinh ngày 02/10/2005 (đến ngày xét xử sơ thẩm chưa đủ 18 tuổi); Nơi cư trú: tỉnh B; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học phổ thông: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Đình V, sinh năm 1983 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; Tiền án, tiền sự: Không; Chồng, con: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 16/12/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 01 - Công an Thành phố Hà Nội.

Đại diện hợp pháp cho bị cáo Bùi Thị X: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; Nơi cư trú: tỉnh B.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí C do Toà án chỉ định:Luật sư Nguyễn Công G, Công ty luật TNHH B - Đoàn LS TP Hà Nội.

Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê X K, bị cáo Đặng Quang G do Toà án chỉ định: Luật sư Lê Thị Hải Y- Công ty TNHH Lê Yến- Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Thị X do Toà án chỉ định: Luật sư Nguyễn Thị Q - Công ty luật T - Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Thị Thanh H, Nguyễn Đình T không kháng cáo, không bị kháng nghị, Toà không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 10 phút ngày 16/12/2021 tại sảnh chung cư V G, Hà Nội, Cơ quan Công an bắt quả tang Nguyễn Chí C và Bùi Thị X khi Bùi Thị X đang nhận từ anh Nguyễn Phụ T- lái xe taxi, 01 hộp giấy có kích thước (45x30x8)cm, trên hộp có ghi: T; 0989.653.333; Bxe Nước Ngầm. Kiểm tra bên trong hộp giấy có 02 bánh hình hộp có kích thước (15x10x2,5)cm. Quá trình bắt giữ Nguyễn Chí C và Bùi Thị X khai đó là ma túy loại Heroine nhận hộ đối tượng Quách Văn T đang ở phòng số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội.

Trên cơ sở lời khai của Nguyễn Chí C và Bùi Thị X cơ quan điều tra đã kiểm tra hành chính căn hộ số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội. Tại thời điểm kiểm tra trong căn hộ có Lê X K, Trịnh Quang H và Bùi Thị Thúy K; thu giữ tại mặt bàn nhiều loại ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 8976/KLGĐ ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “02 bánh chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Chí C và Bùi Thị X là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 640,77gam; số ma túy thu giữ trong phòng 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội là ma túy loại MDMA và Methamphetamine, tổng khối lượng 5,83gam”.

Tài liệu điều tra xác định hành vi phạm tội của các bị cáo:

1. Bị cáo Nguyễn Chí C khai: Từ tháng 10/2021 C ra Hà Nội có quen biết và chơi với Quách Văn T (sử dụng số điện thoại 0989.653.333), C có vay của T số tiền 150 triệu đồng. Quá trình chơi với nhau T rủ C tìm nguồn mua ma túy về bán kiếm lời để trừ số tiền nợ. Trước đó C có biết bị cáo Hoàng Thế A (là con nuôi bố mẹ C) có ma túy bán, nên khi thấy T rủ tham gia mua bán ma túy thì C đồng ý dẫn T vào gặp bị cáo Hoàng Thế A mua ma túy về bán kiếm lời. Ngày 10/12/2021 C và T vào H để thực hiện giao dịch mua ma túy. Tại đây Hoàng Thế A và T thỏa thuận với nhau: Hoàng Thế A sẽ bán cho T 04 bánh Heroin với giá gốc là 480 triệu đồng, sau khi T bán được ma túy lợi nhuận sẽ chia đôi. Nhưng lần đầu tiên mua bán ma túy với nhau, nên Hoàng Thế A bắt T phải trả trước số tiền 300 triệu đồng để nhận ma túy, còn số tiền lời bán ma túy sẽ trả sau và bắt C đứng ra bảo lãnh số tiền là 180 triệu đồng (nếu T không trả số tiền 180 triệu đồng thì C có trách nhiệm thanh toán số tiền trên). Khi Hoàng Thế A về thì T gọi điện cho Lê X K yêu cầu chuyển tiền để nhận hàng. Khoảng 15 phút sau T gọi điện cho K thông báo là đã nhận được tiền và đưa cho C xem phần tin nhắn trên điện thoại (Internet Banking) thể hiện tài khoản có 290 triệu đồng; sau đó C gọi điện cho Hoàng Thế A lấy số tài khoản để T chuyển tiền. Sau khi chuyển tiền nhưng chưa lấy được ma túy nên T và C về Hà Nội. Khi về đến Hà Nội thì Hoàng Thế A thông báo là đã có ma túy và bảo C, T vào H để nhận ma túy, T yêu cầu Hoàng Thế A gửi ma túy theo xe khách ra Hà Nội; Hoàng Thế A yêu cầu T, C phải trả thêm tiền cước chuyển là 30 triệu đồng và nhắn tin số tài khoản 0641000139401 mang tên Lê Ngọc Huệ vào máy điện thoại của C. T đồng ý và vay Bùi Thị Thúy K số tiền 30 triệu đồng để chuyển vào tài khoản của Hoàng Thế A. Bùi Thị Thúy K đồng ý và đã chuyển 30 triệu đồng từ tài khoản của mình vào tài khoản của Hoàng Thế A.

Đêm ngày 15/12/2021 tại phòng 5A8A có: T, C, X, K, Lê X K và Trịnh Quang H, thì Hoàng Thế A gọi điện cho T, T mở loa ngoài cho mọi người nghe thì được biết ma túy đã được chuyển qua đường xe khách ra Hà Nội. Đến khoảng 22 giờ ngày 16/12/2021 T yêu cầu C xuống sảnh của chung cư để nhận ma túy. Khi T yêu cầu C nhận ma túy, C đứng trên tầng 8 của chung cư nhìn xuống thấy 01 xe tắcxi đi trước và có 02 xe ôtô đi sau, nghĩ là Công an đang theo bắt nên đã từ chối xuống nhận và bảo Bùi Thị X (là bạn gái C) trốn đi để không phải nhận ma túy; ngay lúc đó T đứng đằng sau C và tiếp tục yêu cầu C xuống nhận ma túy, C tiếp tục từ chối thì X xin xuống nhận ma túy thay C. Thấy X xuống nhận ma túy thì C đã đi theo X, khi X vừa cầm thùng hàng có ma túy thì bị Công an bắt giữ.

Nguyễn Chí C còn khai, khi ở cùng căn hộ với T đã được T nhiều lần cung cấp ma túy cho sử dụng; ngày 16/12/2021 T cung cấp ma túy cho X, C, K, H và K sử dụng. Kết quả thử nước tiểu Nguyễn Chí C dương tính với ma túy.

2. Bị cáo Quách Văn T khai: Qua quan hệ xã hội Quách Văn T có quen biết với Nguyễn Chí C làm nghề cho thuê căn hộ tại khu chung cư Vihomes Ocean Park G, Hà Nội; qua nói chuyện T biết C có người quen là Hoàng Thế A ở tỉnh H có nguồn cung cấp ma túy (Hoàng Thế A là con nuôi của bố mẹ C).

Đầu tháng 10/2021 T thuê căn hộ 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội và chung sống như vợ chồng với Bùi Thị Thúy K. Đầu tháng 10/2021 Lê X K (tên gọi khác K Ốc) và Đặng Quang G hỏi mua ma túy của T với số lượng lớn, T đồng ý. K và G thỏa thuận mỗi người sẽ mua của T 02kg Ketamine; 02kg ma túy “đá” và 02 bánh Heroine. T yêu cầu K và G phải chuyển tiền đặt cọc trước mỗi người 150 triệu đồng để T vào H mua ma túy; K và G đồng ý và chuyển tiền vào tài khoản của T. Sau khi thỏa thuận thống nhất với K và G xong, ngày 10/12/2021 T và C vào tỉnh H để mua ma túy của Hoàng Thế A. Ngày 11/12/2021 tại khách sạn N ở thị trấn H, H, T hỏi mua của Hoàng Thế A ma túy dạng “ đá”, Ketamine và Heroine, nhưng Thế A thông báo chỉ có Heroine, T đặt mua 04 bánh với giá 120 triệu đồng/01 bánh = 480 triệu đồng, T trả trước 300 triệu đồng, còn lại 180 triệu đồng khi nào bán được ma túy sẽ trả sau, Nguyễn Chí C có trách nhiệm bảo lãnh số tiền này. Lúc đó trong tài khoản của T không đủ tiền nên T đã gọi điện cho K yêu cầu chuyển thêm 100 triệu đồng nữa cho đủ 300 triệu đồng để trả tiền mua 04 bánh Heroine, K đồng ý và đã chuyển vào tài khoản của T 100 triệu đồng. Ngày 12/12/2021 T chuyển vào tài khoản của Hoàng Thế A 300 triệu đồng để mua 04 bánh Heroine. Đến ngày 14/12/2021 do chưa nhận được ma túy nên T và C về Hà Nội. Trưa ngày 15/12/2021 tại nhà Lê X K ở xã V, huyện A, H có K, G và Trịnh Quang H (người quen của G), T thông báo với mọi người đã lấy được 04 bánh Heroine và sẽ chuyển cho G và K mỗi người 02 bánh Heroine. Trong khi đang ở nhà K thì T nhận được điện thoại của Hoàng Thế A thông báo đã có ma túy, nhưng nếu muốn chuyển ma túy ra Hà Nội thì T phải trả thêm 30 triệu đồng nữa. T đã chuyển số tiền 15 triệu đồng vào tài khoản của Bùi Thị Thúy K và gọi điện cho K hỏi vay thêm 15 triệu đồng nữa cho đủ 30 triệu đồng và bảo K chuyển đến tài khoản của Hoàng Thế A. Bùi Thị Thúy K sau khi chuyển tiền cho Hoàng Thế A đã chụp ảnh màn hình và gửi cho T. Đồng thời lúc đó có người phụ nữ xưng tên Ngọc dùng số điện thoại 0962.015.720 thông báo là ma túy đã chuyển theo xe khách về Hà Nội và chụp ảnh BKS xe 20B-015.84 gửi cho T. Sau khi biết ma túy đã được chuyển ra Hà Nội thì G đã cử Trịnh Quang H đi cùng K về nơi của T ở chung cư V để nhận ma túy. Tại chung cư V T đã mang ma túy ra cho H, K, C, X và K sử dụng. Đến khoảng 22h00’ ngày 16/12/2021 nhà xe khách gọi điện thông báo cho T ra nhận hàng, T gọi điện thuê taxi nhận và giao tại sảnh chung cư S1.12 và yêu cầu C xuống nhận ma túy. C từ chối xuống nhận, thì X xin đi nhận thay C, nhưng khi X xin đi nhận ma túy thì C đi theo X. Khi C và X đi nhận ma túy, T đứng trên tầng 8 nhìn xuống thấy C và X bị Công an bắt nên đã bỏ trốn. Quá trình bỏ trốn T và Ngọc còn mua bán 8kg ma túy “đá” nữa, thì bị Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Quảng Ninh bắt.

3. Bị cáo Bùi Thị X khai: Có quen biết T và C. Quá trình ở cùng nhau X biết T và C mua bán trái phép chất ma túy. Đêm ngày 15/12/2021 tại phòng 5A8A có: T, C, X, K, Lê X K và Trịnh Quang H, qua nghe nói chuyện X biết H và K chờ để nhận ma túy của T. Tối ngày 16/12/2021 T bảo C lên tầng 8 của tòa nhà nhìn xuống xem xe tắcxi chở ma túy đã đến chưa để C xuống lấy ma túy. C cùng X đi lên tầng 8 nhìn xuống thấy có xe tắc xi đến và nghi ngờ có Công an theo bắt nên đã rủ X cùng trốn và tắt máy điện thoại để không phải xuống nhận ma túy cho T; nhưng khi đó thì T có mặt ở đó và bắt ép C xuống để nhận ma túy, C từ chối, thấy vậy thì X đồng ý xuống nhận thay cho C. Thấy X đồng ý xuống nhận ma túy thì C đi theo X, khi X nhận thùng hàng có chứa ma túy từ xe tắcxi thì bị Công an bắt giữ.

Bùi Thị X còn khai khi ở cùng căn hộ với T đã được T nhiều lần cung cấp ma túy cho sử dụng; ngày 16/12/2021 T cung cấp ma túy cho X, C, K, H và K sử dụng. Kết quả thử nước tiểu Bùi Thị X dương tính với ma túy.

4. Bị cáo Lê X K khai: Qua quan hệ xã hội K có quen biết với Quách Văn T ở phòng số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội, sử dụng số điện thoại 0989.653.333 và số 0336.596.758. Trưa ngày 15/12/2021 tại nhà K ở có K, G, T và H uống rượu, sau khi uống rượng xong K chở T, H về nhà T tại địa chỉ 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội. Tại nhà T ở số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội, T bỏ ma túy ra và cùng với K, bạn gái của T (K); C và bạn gái của C (X) và T sử dụng. Kết quả thử nước tiều Lê X K dương tính với ma túy.

Lê X K còn khai: Đã 04 lần cho T vay tổng số 380 triệu đồng, hình thức chuyển tiền là K dùng số tài khoản mang tên Đào Hiền Ly ở tại Ngân hàng SHB chuyển vào tài khoản mang tên T mở tại Ngân hàng Viettinbank. Lê X K không thừa nhận việc mua bán ma túy với Quách Văn T.

5. Bị cáo Đặng Quang G khai: Qua quan hệ xã hội G có quen biết với Quách Văn T; cuối tháng 11/2021 G chuyển khoản cho Quách Văn T vay 150 triệu đồng. Trưa ngày 15/12/2021 tại nhà K ở có K, G, T và H uống rượu, sau khi uống rượng xong G bảo H đi về nhà T tại địa chỉ 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội để đòi nợ 150 triệu đồng, khi K và H đến nhà T thì bị Công an bắt giữ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đặng Quang G phủ nhận việc mua bán ma túy với Quách Văn T.

Các bị cáo khác khai Bị cáo Bùi Thị Thúy K khai: Có quan hệ tình cảm và ở cùng với Quách Văn T căn hộ số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội. Quá trình chung sống K biết Quách Văn T có tham gia mua bán trái phép chất ma túy, ngày 10/12/2021 Quách Văn T và Nguyễn Chí C vào tỉnh H để mua ma túy, thỏa thuận là sẽ giao ma túy tại H. Đến ngày 15/12/2021 Quách Văn T nói với K là ma túy chuyển ra Hà Nội thì phải trả thêm 30 triệu đồng tiền công vận chuyển và T hỏi vay K 30 triệu đồng để trả tiền công vận chuyển, K đồng ý cho vay, nhưng trong tài khoản lúc đó của K chỉ có 15 triệu đồng nên T đã chuyển 15 triệu đồng vào tài khoản của K để K chuyển vào tài khoản số 0641000139401 mang tên Lê Ngọc Huệ (số tài khoản này K lấy từ máy điện thoại của Nguyễn Chí C). Đêm ngày 15/12/2021 tại phòng 5A8A có: T, C, X, K, Lê X K và Trịnh Quang H, qua nghe nói chuyện K biết H và K chờ để nhận ma túy của T. Đến khoảng 22h30’ ngày 16/12/2021 khi K đang ở phòng 5A8A tòa S1.12 cùng với T, H, K thì bị kiểm tra và bắt giữ còn Quách Văn T bỏ trốn.

Bùi Thị Thúy K còn khai: khi ở cùng căn hộ với T đã được T nhiều lần cung cấp ma túy cho sử dụng; ngày 16/12/2021 T cung cấp ma túy cho X, C, K, H và K sử dụng. Kết quả thử nước tiểu Bùi Thị Thúy K dương tính với ma túy.

6. Bị cáo Hoàng Thế A (đang là bị cáo trong vụ án hủy hoại tài sản do Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Hà, H khởi tố) khai: Hoàng Thế A biết Nguyễn Chí C vì ở cùng quê và Thế A là con nuôi của bố mẹ Nguyễn Chí C. Ngày 10/12/2021 Nguyễn Chí C cùng Quách Văn T vào H để nhờ mua hộ 04 bánh Heroin. Thế A đồng ý và cung cấp tài khoản (Thế A mượn tài khoản của Nguyễn Ngọc Hải) để C chuyển tiền, sau đó C đã chuyển 300 triệu đồng vào tài khoản này; sau khi nhận được tiền thì Thế A không mua hộ ma túy nữa mà rút số tiền đó ra để chi tiêu cá nhân. Đối với số tiền 30 triệu đồng do Bùi Thị Thúy K chuyển vào tài khoản của Lê Ngọc Huế, Hoàng Thế A khai là do Nguyễn Chí C cho để mời Thế A ra Hà Nội chơi.

7/ Trịnh Quang H khai: Trưa ngày 15/12/2021 tại nhà K có K, G, T và H cùng uống rượu. Trong cuộc rượu G hỏi về số tiền 150 triệu đồng mà T nợ G, T nói với G đến tối hàng sẽ về thì G sẽ nhận hàng (hàng tức ma túy). Sau cuộc rượu thì G cử H đến nhà T để áp tải hàng, khi nào hàng về thì thông báo cho G biết. Ngày 16/12/2021 tại căn hộ số 5A8A tòa S1.12 chung cư V G, Hà Nội, T bỏ ma túy ra và cùng với K, bạn gái của T (K); C và bạn gái của C (X) và T sử dụng. Kết quả thử nước tiều Trịnh Quang H dương tính với ma túy. Khi xảy ra sự việc Quách Văn T bỏ trốn, chưa ghi được lời khai, nên không đủ căn cứ để khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Trịnh Quang H. Sau khi bắt được Quách Văn T, Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố bị cáo đối với Trịnh Quang H, nhưng Trịnh Quang H bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án hình sự, tạm đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ bị cáo và truy nã đối với bị cáo Trịnh Quang H là phù hợp.

8/ Bị cáo Bùi Thị Thúy K khai: Đêm ngày 15/12/2021 tại phòng 5A8A có: T, C, X, K, Lê X K và Trịnh Quang H, qua nghe nói chuyện K biết H và K chờ để nhận ma túy của T. Đến khoảng 22h30’ ngày 16/12/2021 khi K đang ở phòng 5A8A tòa S1.12 cùng với T, H, K thì bị kiểm tra và bắt giữ còn Quách Văn T bỏ trốn.

- Tài liệu về tài khoản Ngân hàng:

Bảng sao kê tài khoản số 105874561343 mang tên Quách Văn T mở tại Ngân hàng Vietinbank với tài khoản số...mang tên Dao Hien Ly (do Lê X K sử dụng) thể hiện:

Ngày 30/11/2021, Lê X K chuyển 02 lần, tổng số là 70 triệu đồng; Ngày 02/12/2021, Lê X K chuyển 150 triệu đồng;

Ngày 16/12/2021, Lê X K chuyển 60 triệu đồng.

Bảng sao kê tài khoản số 214199388888 mang tên Quách Văn T mở tại Ngân hàng MBbank thể hiện ngày 11/12/2021, Lê X K chuyển 100 triệu đồng.

Bảng sao kê tài khoản số 214199388888 mang tên Quách Văn T mở tại Ngân hàng MBbank thể hiện, ngày 11/12/2021 Quách Văn T chuyển đến tài khoản số 1019778658 mang tên Nguyen Ngoc Hai (do Hoàng Thế A sử dụng) 300 triệu đồng.

Bảng sao kê tài khoản số 214199388888 mang tên Quách Văn T mở tại Ngân hàng MBbank với tài khoản số 210499388888 mang tên Quach Thi Yen mở tại Ngân hàng MBbank (do Đặng Quang G sử dụng) xác định ngày 29/11/2021, Đặng Quang G đã 04 lần chuyển, tổng số 150 triệu đồng;

Tài khoản số 0351001168317 mang tên Bùi Thị Thúy K mở tại Ngân hàng Vietcombank xác định ngày 15/11/2021 chuyển 30 triệu đồng vào tài khoản mang tên Lê Ngọc Huế (do Hoàng Thế A sử dụng) và tài khoản này đã chuyển 20 triệu đồng vào tài khoản 0846789777 mang tên Lê Hữu Thắng (do Lương Thị Hoàng Ngọc mượn).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí C, Lê X K, Đặng Quang G và Bùi Thị X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Lê X K tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/9/2022.

2. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Đặng Quang G tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 22/3/2023.

3. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn Chí C tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/12/2021.

4. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 91; Điều 101, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Bùi Thị X 13 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/10/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Quách Văn T, Hoàng Thế A; Bùi Thị Thuý K; và Lương Thị Hoàng Ngọc; quyết định về vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 4/4/2023 bị cáo Nguyễn Chí C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 29/3/2023 Bùi Thị X có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 5/4/2023 Lê X K có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án Hà Nội xử không đúng. Ngày 5/4/2023 Đặng Quang G có đơn kháng cáo cho rằng Tòa án Hà Nội xử không đúng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo X và C rút đơn kháng cáo.

Các bị cáo Lê X K, Đặng Quang G giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các bị cáo vẫn không thừa nhận hành vi phạm tội.

Vị luật sư bào chữa cho bị cáo K, G đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đề nghị của các bị cáo để có quyết định phù hợp với quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, vai trò, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Mặc dù các bị cáo không nhận tội, nhưng căn cứ vào các cuộc gọi của các bị cáo K, G, thời gian gặp gỡ của bị cáo K G với các bị cáo khác. Thời điểm chuyển tiền của K cho T, lời khai của các bị cáo khác. Đủ cơ sở kết luận K và G đặt mua mỗi bị cáo 2 bánh heroin từ T. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo K, G không nhận tội, không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 118 ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Các bị cáo X, C rút kháng cáo là tự nguyện đề nghị Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo X, C rút kháng cáo, việc rút kháng cáo của các bị cáo là tự nguyện. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Luật sư, Đại diện Viện kiểm sát, đình chỉ xét xử phúc thẩm với kháng cáo của 2 bị cáo.

Mặc dù bị cáo K, G không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được, lời khai của các bị cáo K tại cấp sơ thẩm và lời khai của X, C trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay. Các cuộc gọi của K, G, thời điểm chuyển tiền, số tiền chuyển của K cho T. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm: Bị cáo Lê X K mua của bị cáo Quách Văn T 02 bánh ma túy với tổng khối lượng 640,77gam Heroine nhằm mục đích bán trái phép.

Bị cáo Đặng Quang G mua của bị cáo Quách Văn T 02 bánh ma túy với tổng khối lượng 640,77gam Heroine nhằm mục đích bán trái phép. G giao H đến nhận 2 bánh heroin ở nhà Tòan. Tối 15/12/2021, K và H đang chờ nhận Heroin tại nhà T, nhưng chưa kịp nhận thì X là người trực tiếp nhận Heroin đã bị bắt.

[3]. Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội và kháng cáo của các bị cáo K, G: Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc T hợp đặc biệt nghiêm trọng, không những trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn mà còn tiếp tay cho các đối tượng nghiện ma túy, góp phần làm gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn trong xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy đối với đời sống xã hội và quy định của Nhà nước là nghiêm cấm mọi hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, chứa chấp sử dụng các chất ma túy nhưng các bị cáo coi thường pháp luật, vẫn cố ý phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất hành vi phạm tội, hậu quả, vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù chung thân là có căn cứ.

Tại cấp phúc thẩm các bị cáo không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới, không thừa nhận tội, nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, bác kháng cáo của bị cáo K, G, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo K, G phải chịu án phí phúc thẩm. Bị cáo X, C rút kháng cáo nên không phải chịu án phí phúc thẩm.

[6]. Về quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348; điểm a, đ khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 500/2023/TPT- HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Chí C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 500/2023/TPT- HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Bùi Thị X phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

3. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê X K, Đặng Quang G. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, cụ thể như sau:

Tuyên bố bị cáo Lê X K, Đặng Quang G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

3.1 Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Lê X K tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 09/9/2022.

3.2 Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Đặng Quang G tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 22/3/2023.

4. Về án phí: Bị cáo Bùi Thị X, Nguyễn Chí C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Lê X K, Đặng Quang G mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 488/2023/HS-PT

Số hiệu:488/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về