Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 484/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 484/2023/HS-PT NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 141/2023/TLPT-HS ngày 15 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Hữu N cùng đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Hữu N, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú tại 53/73F Chu Văn An, Phường 1X, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở trước khi bị bắt: 718/5C/1 Vườn Lài, phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn Hữu T và bà Phạm Thị U; bị cáo đã ly hôn với vợ là Trần Thị Ngọc L và có 01 con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 03/12/2021 đến nay tại trại tạm giam Chí Hòa, Công an Thành phố Hồ Chí Minh (có măt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu N: Bà Nguyễn Thị Quế A, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Trần Văn Tạo, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có măt).

2. Trần Thị Ngọc N1, sinh ngày 27 tháng 4 năm 1988, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú tại 88/79/28 Bà Huyện Thanh Quan, Phường X, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở trước khi bị bắt: 725/2/21 Trường Chinh, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: không; con ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị N; bị cáo sống chung như vợ chồng với Nguyễn Hoàng L và có 04 người con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 03/12/2021 đến nay tại trại tạm giam Chí Hòa, Công an Thành phố Hồ Chí Minh (có măt).

Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Ngọc N1: Ông Nguyễn Trung C, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH CT, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có măt).

(Ngoài ra, trong vụ án có những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 17 giờ 15 phút, ngày 03/12/2021, tại trước nhà số 412/13 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, tổ công tác Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Tân Phú phát hiện Nguyễn Hữu N có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán lại cho người khác. Thu giữ quả tang trên tay phải của N đang cầm 01 túi nylon màu trắng có ghi chữ “CHIC STUDIO” bên trong có 01 bộ drap màu trắng ghi chữ “THE LUXURY HEART” và 01 túi nylon màu đen đựng 01 khối hình chữ nhật có kích thước 16x10x2 cm gồm 03 lớp nylon ghi chữ “DOUBLE OUGLOBE BRAND”, bên trong có 02 lớp nylon màu vàng và 03 lớp nylon không màu chứa chất bột màu trắng kết luận giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 351,54 gam loại Heroine (Kết luận giám định số 6515/KLGĐ-MT ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Lúc 14 giờ 30 phút ngày 04/12/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Phú tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của N tại địa chỉ 718/5C/1 Vườn Lài, phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Vào lúc 18 giờ 40 phút ngày 03/12/2021, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Tân Phú phối hợp với Công an phường Tây Thạnh, quận Tân Phú kiểm tra nhà số 725/2/21 Trường Chinh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, bắt quả tang Trần Thị Ngọc N1 đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán. Thu giữ bên dưới sàn gỗ lầu 1 gồm:

01 bao nylon màu trắng bên trong có chứa 01 hộp giấy bên ngoài có ghi chữ SELSUN, bên trong có chứa: 01 gói nylon chứa 07 viên nén màu xanh, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,1170 gam loại MDMA; 01 viên nén màu đỏ, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1058 gam loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa 19 viên nén màu xanh, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,5475 gam loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5486 gam loại Heroine; 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,8641 gam loại Ketamine; 98 viên nén và 11 mảnh vụn có tổng khối lượng 51,104 gam không tìm thấy ma túy (Kết luận giám định số 6516/KLGĐ-MT ngày 10/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra Nguyễn Hữu N và Trần Thị Ngọc N1 khai nhận:

Vào khoảng năm 2018 Nguyễn Hữu N quen biết với một người đàn ông tên Đại (không rõ lai lịch) và biết Đại có bán ma túy. Ngày 02/12/2021, N điện thoại thỏa thuận mua của Đại 01 bánh Heroine với giá 200.000.000 đồng. Sau đó, N liên lạc với Trần Thị Ngọc N1 nhờ tìm khách mua bánh Heroine trên và hứa sẽ gửi cho N1 ít tiền, N1 đồng ý. N1 liên lạc với Hải (không rõ lai lịch) nhờ tìm khách mua Heroine. Trưa ngày 03/12/2021, Hải liên lạc N1 hỏi mua bánh Heroine với giá 210.000.000 đồng/bánh nhưng khi bán được phải trích ra 5.000.000 đồng đưa cho Hải. N1 thông báo cho N qua ứng dụng Telegram đã tìm được khách mua với giá 205.000.000 đồng nhưng N không đồng ý mà ra giá 220.000.000 đồng. Một lúc sau, Hải liên lạc lại với N1 báo có người đồng ý mua bánh Heroine với giá 220.000.000 đồng, nhưng khi bán được phải trích ra 10.000.000 đồng đưa cho Hải, N1 đồng ý. N1 nhắn tin lại cho N báo khách đồng ý mua với giá 210.000.000 đồng, N đồng ý và điện thoại cho Đại mua 01 bánh Heroine với giá 200.000.000 đồng, giao dịch tại khu vực đường Trường Chinh - Nguyễn Văn Quá thuộc Quận 12. Sau khi nhận được ma túy, N điện thoại cho N1 thì N1 bảo N mang ma túy qua địa chỉ 412/13 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú gặp một người đàn ông tên Hải (không rõ lai lịch). Khi N đi đến địa chỉ trên thì được Hải dẫn vào phòng trọ số 3 của nhà số 412/13 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú. Một lúc sau, thì có thêm N1 cùng với chồng của N1 là Nguyễn Hoàng L và ba người đàn ông không rõ lai lịch (là khách mua ma túy) tới. Linh đi ra ngoài, trong phòng chỉ còn N, N1, Hải và ba người đàn ông; N lấy bánh Heroine ra đưa cho ba người đàn ông thử, sau khi thử xong thì nói hàng kém chất lượng không mua nên N1 điện thoại cho Trần Hoàng N2 là anh ruột của N1 đến chở Nvề chỗ ở của N1, còn Linh sẽ chở N1. Sau khi về tới chỗ ở của N1 thì N1 nói N quay lại địa chỉ cũ bán bánh Heroine với giá 215.000.000 đồng nhưng sau khi bán được thì phải trích ra 5.000.000 đồng đưa cho Hải, N đồng ý. N1 đặt xe Grab để N mang ma túy đi bán. Khi N đi đến nơi và xuống xe đi bộ đến trước nhà số 412/13 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú thì bị Công an bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngoài việc giới thiệu khách mua ma túy cho N, N1 còn trực tiếp hoạt động mua bán ma túy tại nhà. Nguồn ma túy N1 mua của nhiều đối tượng không rõ lai lịch tại khu vực vòng xoay Lăng Cha Cả, quận Tân Bình vào khoảng đầu tháng 11/2021 về để bán lại cho người nghiện kiếm lời. N1 mua thuốc lắc với giá 70.000 đồng/viên và bán lại với giá 150.000 đồng/viên; Ketamine mua với giá 700.000 - 800.000 đồng/gam và bán lại với giá 1.000.000 đồng/gam; còn Heroine mua với giá 80.000 đồng/tép và bán lại với giá 100.000 đồng/tép nhưng N1 chưa kịp bán hết thì đã bị thu giữ như nêu trên.

Nguyễn Hoàng L và Trần Hoàng N2 khai nhận đều không biết và không tham gia cùng N, N1 hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Lời khai của L và N2 phù hợp với lời khai của Nguyễn Hữu N và Trần Thị Ngọc N1. Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú đã giải tỏa đối với L. Riêng N2 qua xét nghiệm, N2 dương tính với ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú đã bàn giao N2 cho Công an phường Tây Thạnh, quận Tân Phú để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người đàn ông tên Đại và ba người đàn ông mua ma túy do N và N1khai không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với người đàn ông tên Hải sinh sống tại phòng trọ số 3, căn nhà số 412/13 Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua xác minh được biết tại phòng trọ này có Nguyễn Thanh Hải (sinh năm:

1975, hộ khẩu thường trú: 40C Hiền Vương, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh) cư trú nhưng hiện đã bỏ đi đâu không rõ và thực tế không cư trú tại địa phương, nhà đã bán. Qua nhận dạng ảnh của Nguyễn Thanh Hải, Nguyễn Hữu N nhận dạng được Nguyễn Thanh Hải là người đàn ông ở phòng trọ số 3 và là người đàn ông mà N1 đã nhờ tìm khách mua bánh Heroine cho N; Trần Thị Ngọc N1 vào ngày 03/12/2021 mới gặp Hải lần đầu nên N1 không nhận dạng được Hải. Ngày 07/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định truy tìm đối với Nguyễn Thanh Hải.

* Vật chứng vụ án gồm có:

- 01 (một) đĩa CD-Maxell được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên người chứng kiến Tống Văn G và hình dấu Công an phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú.

- 01 (một) đĩa CD-Maxell được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Hiếu Nghĩa và hình dấu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú.

1. Thu giữ của Nguyễn Hữu N:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 6515-1392/21 có chữ ký giám định viên Nguyễn Xuân Sang và Cán bộ điều tra Trần Bảo Quang, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu MJphone, N sử dụng vào hoạt động mua bán trái phép chất ma túy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, N sử dụng để chơi game.

- 01 (một) túi nylon màu trắng có ghi chữ “CHIC STUDIO”, 01 (một) bộ drap màu trắng có ghi chữ “THE LUXURY HEART”.

2. Thu giữ của Trần Thị Ngọc N1:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 6516-1393/21 có chữ ký giám định viên Nguyễn Xuân Sang và Cán bộ điều tra Trần Bảo Quang, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu bạc, N sử dụng để liên lạc cá nhân và hoạt động mua bán trái phép chất ma túy.

- 01 (một) cân điện tử, N1 sử dụng để cân ma túy - 01 (một) hộp giấy màu đen bên ngoài có ghi chữ 4U SHOP MAKE YOUR STYLE.

- 01 (một) hộp giấy bên ngoài có ghi chữ SELSUN; 01 (một) gói nylon màu trắng; 01 (một) hộp giấy bên ngoài có ghi chữ N95.

Tại bản Cáo trạng số 570/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 11/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo như sau:

- Truy tố bị cáo Nguyễn Hữu N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự;

- Truy tố bị cáo Trần Thị Ngọc N1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N: Tù chung thân, về tội“Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tình từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 03/12/2021.

Buộc bị cáo Nguyễn Hữu N phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

1.2/ Căn cứ các điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251; các điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc N1: Tù Chung thân, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tình từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 03/12/2021.

Buộc bị cáo Trần Thị Ngọc N1 phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 10/01/2023, bị cáo Nguyễn Hữu N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 13/01/2023, bị cáo Trần Thị Ngọc N1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Hữu N rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.

Bị cáo Trần Thị Ngọc N1 vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức án tù có thời hạn vì cho rằng: Mức án chung thân là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo; trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm gia đình bị cáo có nộp khắc phúc hậu quả 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); Mẹ là bà Nguyễn Thị Non có tham gia đội tải đạn và đội tải thương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng giấy khen; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, mẹ già, cha bị tai biến mất sức lao động, con nhỏ nhất của bị cáo chưa được 36 tháng tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

- Đối với bị cáo Nguyễn Hữu N: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo trên cơ sở tự nguyện. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu N.

- Đối với bị cáo Trần Thị Ngọc N1: Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo N1 tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Thị Ngọc N1. Tại cấp phúc thẩm bị cáo N1 không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo N1 trình bày tranh luận: Bị cáo N1 đồng ý với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” như bản án sơ thẩm đã xác định. Tuy nhiên bản án sơ thẩm đã xử bị cáo N1 mức án chung thân là quá nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo N1 có cung cấp tài liệu chứng minh: Trong giai đoạn phúc thẩm gia đình bị cáo nộp khắc phúc hậu quả 5.000.000 đồng (năm triệu đồng); mẹ bị cáo là bà Nguyễn Thị Non có tham gia công dân hỏa tuyến trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, bị cáo có 04 người con trong đó có một người con đang ở chung với bị cáo, 03 người con còn lại đang ở nhà do ông bà ngoại đã già yếu chăm sóc.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N1 để bị cáo có cơ hội sớm được về chăm sóc các con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa cho bị cáo và xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/01/2023 bị cáo Nguyễn Hữu N kháng cáo, ngày 13/01/2023 bị cáo Trần Thị Ngọc N1 kháng cáo. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo làm và nộp trong hạn luật định nên được thụ lý, xét xử theo thủ tục phúc thẩm, quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Đối với bị cáo Nguyễn Hữu N: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo N đã rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Xét việc rút yêu cầu kháng cáo của bị cáo N là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu N. Bản án sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo N.

[3]. Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Thị Ngọc N1.

[3.1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo N1 cũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của Cáo trạng đã truy tố và Bản án sơ thẩm đã xét xử. Qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định được như sau:

Vì mục đích vụ lợi, bị cáo N1 đã liên lạc đối tượng Hải (không rõ lai lịch) giới thiệu mua ma túy 01 bánh Heroine có khối lượng 351,54 gam của N để nhận tiền công. Ngoài ra, bị cáo N1 còn mua ma túy của nhiều đối tượng không rõ lai lịch để phân chia bán cho người nghiện nhằm kiếm lời. Do đó, bị cáo N1 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đối với số ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang và số ma túy thu giữ quả tang của N mà bị cáo N1 môi giới tìm khách mua để nhận tiền công (theo kết quả giám định có tổng khối lượng: 352,0886 gam Heroine; 9,8641 gam Ketamine; 10,6645 gam MDMA và 0,1058 gam Methamphetamine (bao gồm 9,8641 gam Ketamine;10,6645 gam MDMA; 0,5486 gam Heroine; 0,1058 gam Methamphetamine thu giữ của N1 khi bắt quả tang và 351,54 gam Heroine thu giữ quả tang của N mà N1 đã giới thiệu khách mua ma túy cho N vào ngày 03/12/2021).

Cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Trần Thị Ngọc N1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm h khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3.2] Hành vi của bị cáo N1 là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được ma túy là loại chất rất nguy hiểm cho người sử dụng nhưng vì ham lợi mà bị cáo đã bất chấp tham gia vào việc mua bán, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt thật nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ dài để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo N1 tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và phạt bổ sung bị cáo N1 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước là có xem xét đánh giá đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo qui định của pháp luật.

[3.2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Thị Ngọc N1 và ý kiến bào chữa của luật sư đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N1, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.2.1]. Bị cáo N1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo N1 phạm tội khi đang mang thai đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các tình tiết này đều đã được cấp sơ thẩm xem xét, đánh giá.

[3.2.2]. Tại cấp phúc thẩm phía gia đình bị cáo N1 có nộp 5.000.000đ (năm triệu đồng) phần nộp phạt bổ sung theo quyết định của án sơ thẩm; bị cáo xuất trình 01 Quyết định về việc thực hiện chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Mỹ bảo vệ Tổ quốc đối với bà Nguyễn Thị Non (là mẹ ruột bị cáo) và đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha bị tai biến, mẹ già yếu, con nhỏ (sinh năm 2021). Tuy nhiên, đây không thuộc tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo N1 và đề nghị của Luật sư giảm xuống hình phạt tù có thời hạn. Cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận bị cáo Trần Thị Ngọc N1 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu N. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Nguyễn Hữu N.

2. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Ngọc N1, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 19/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Ngọc N1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251; các điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc N1: Tù Chung thân. Thời hạn tù được tình từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 03/12/2021.

Buộc bị cáo Trần Thị Ngọc N1 phải nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.

(Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo N1 đã nộp phạt bổ sung số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng), tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) của bị cáo Trần Thị Ngọc N1 do Nguyễn Hoàng L đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004578 ngày 04/5/2023 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo cho việc thi hành án nộp phạt bổ sung để sung quỹ nhà nước đối với bị cáo N1).

3. Án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thị Ngọc N1 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 484/2023/HS-PT

Số hiệu:484/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về