Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 45/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 45/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2024, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2024/HSST ngày 29 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2024/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:

1- Họ và tên: Lò Đông K (Không có tên gọi khác), sinh ngày 21/9/1971 tại tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn T (đã chết) và bà Lò Thị Ph (đã chết); vợ Lò Thị Kh, sinh năm 1971 và có 02 người con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 22/12/2003 bị Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù giam về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”; ngày 28/3/2014 bị Toà án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, hiện đã được xoá án tích. Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính lần nào; tạm giữ từ ngày 03/10/2023 đến ngày 12/10/2023; tạm giam từ ngày 12/10/2023 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2- Họ và tên: Vàng A D (Không có tên gọi khác), sinh ngày 02/5/1978 tại tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản H V B, xã Háng L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không học; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng Cháy M, sinh năm 1943 (đã chết) và bà Giàng Thị D, sinh năm 1948; vợ Giàng Thị S (đã chết). Năm 2014 chung sống như vợ chồng với chị Hờ Thị M, sinh năm 1985 và có 03 người con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính lần nào; tạm giữ từ ngày 03/10/2023 đến ngày 12/10/2023;

tạm giam từ ngày 12/10/2023, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có nghĩa vụ liên quan:

Anh Lò Văn Th, sinh ngày 07/8/1989.

Nơi cư trú: Bản Mường L 1, xã Mường L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, vắng mặt không có lý do.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Lò Thị Kh, sinh năm 1971.

Nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo Vàng A D:

Anh Sùng A T, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Tổ 04, thị trấn Điện Biên Đ, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 02/10/2023, Lò Đông K gọi điện thoại cho Vàng A D trú tại bản Huổi V B, xã Háng L, huyện Điện Biên Đ để hỏi mua Heroine mục đích sử dụng và bán. Qua trao đổi, khoảng 19 giờ cùng ngày tại khu vực bãi ruộng thuộc bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ Lò Đông K mua được của Vàng A D 01 cục Heroine được gói bằng mảnh nilon màu trắng với giá 500.000đ. Mua được Heroine, Lò Đông K cầm ở tay trái rồi quay về nhà, về đến nhà K bẻ một ít để sử dụng, sau đó gói lại rồi mang cất giấu ở chuồng gà của gia đình. Đến khoảng 08 giờ sáng ngày 03/10/2023, có Lò Văn Th trú tại bản Mường L 1, xã Mường L, huyện Điện Biên Đ đến nhà K hỏi mua Heroine để sử dụng, Lò Đông K đã bán cho Th 01 cục Heroine với giá 100.000đ. Sau đó, Lò Đông K tiếp tục lấy một ít Heroine ra nhà vệ sinh của gia đình để sử dụng, thì Lò Văn Th quay lại để mua thêm Heroine, nhưng K bảo không có khi Th đi về, khi Lò Văn Th ra đến cửa thì gặp tổ công tác Công an huyện Điện Biên Đông, qua kiểm tra Th không phát hiện thu giữ gì, kiểm tra Lò Đông K phát hiện, thu giữ tại tay trái của K 01 cục Heroine được gói bằng mảnh nilon màu trắng mục đích để sử dụng và bán kiếm lời và số tiền 100.000đ Lò Đông K mới bán Heroine cho Lò Văn Th. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông đã ban hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Vàng A D.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm: 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục chất bột màu trắng đục dạng nén, nghi Heroine, 01 tờ tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành mệnh giá 100.000đ, chưa giám định và 01 mảnh giấy bạc cũ đã qua sử dụng kèm theo 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ, cũ đã qua sử dụng, 01 chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, màu xanh trắng, nhãn hiệu “4GVOLTE”, tên thiết bị G30, IMEIL1-355221012117159; IMEIL2-355221012117167, điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động, màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “VIVO”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị hỏng, vỡ màn hình, không sử dụng được; 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1-864751067375330; số IMI 2- 86475106737532.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng hồi 16 giờ 00 phút ngày 03/10/2023 xác định: Tổng số chất bột màu trắng đục dạng nén nghi Heroine thu giữ của Lò Đông K có khối lượng 0,19 gam, gửi toàn bộ đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 1483/KL-KTHS ngày 10/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng đục dạng nén thu giữ của Lò Đông K gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Đối với chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1-864751067375330; số IMI 2-86475106737532, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông thu giữ của Lò Đông K. Quá trình điều tra và tại phiên toà đã xác minh, xác định chiếc điện thoại trên là tài sản hợp pháp của chị Lò Thị Kh, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1971, nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Kh có lời khai thể hiện: Chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1-864751067375330; số IMI 2-86475106737532, là tài sản riêng của chị, chiếc điện thoại chị mua năm 2023 ở huyện Điện Biên Đông, với giá 3.700.000đ, số tiền mua điện thoại là tiền chị tiết kiệm từ bán ngô, sắn mà có. Do điện thoại của chồng chị là Lò Đông K bị hỏng, nên đã mượn điện thoại của chị. Việc chồng chị là Lò Đông K sử dụng chiếc điện thoại để liên lạc mua ma túy chị không biết. Nên làm đơn đề nghị Tòa án trả lại chiếc điện thoại trên cho chị.

Bản Cáo trạng số: 13/CT-VKSĐBĐ ngày 29 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên truy tố các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên Đông giữ quyền công tố luận tội: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D cả về tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lò Đông K từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vàng A D từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điểm a, b, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a, b, c Khoản 2 Điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,08 gam Heroine hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh giấy bạc và 01 chiếc bật lửa ga, màu đỏ cũ, đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, màu xanh trắng, nhãn hiệu “4GVOLTE”, tên thiết bị G30, IMEIL1- 355221012117159; IMEIL2-355221012117167, điện thoại cũ đã qua sử dụng thu giữ của Vàng A D.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) thu giữ của Lò Đông K.

- Truy thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Vàng A D.

- Trả lại cho bị cáo Lò Đông K 01 chiếc điện thoại di động, màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “VIVO”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị hỏng, vỡ màn hình, không sử dụng được.

- Trả lại cho chị Lò Thị Kh, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1971, nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1- 864751067375330; số IMI 2-86475106737532.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Miễn án phí hình sự cho các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về sự vắng mặt của người có nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Th. Hội đồng xét xử xét thấy, sự vắng mặt của người có nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo, người có nghĩa vụ liên quan có lời khai thể hiện rõ trong hồ sơ. Cho nên, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt người có nghĩa vụ liên quan.

[2]. Xét về hành vi của các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D thấy rằng: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố.

Cụ thể: Hồi 08 giờ 30 phút ngày 03/10/2023, Tổ công tác Công an huyện Điện Biên Đông phối hợp với tổ công tác số 6 kế hoạch 1266 của Công an tỉnh Điện Biên, Công an xã Mường Luân làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên phát hiện, băt quả tang Lò Đông K đang cất giấu trái phép 0,19 gam Heroine. Mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Nguồn gốc số Heroine trên là do Lò Đông K mua của Vàng A D. Ngày 03/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Điện Biên Đông đã ban hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Vàng A D.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Như vậy, Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đề nghị của Viện Kiểm sát phù hợp, HĐXX chấp nhận.

[3]. Về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là những người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, Hành vi của các bị cáo còn tiếp tay cho những kẻ nghiện chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn xã Phì Nhừ nói riêng, huyện Điện Biên Đông nói chung. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lò Đông K, ngày 22/12/2002 bị Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù giam về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”; ngày 28/3/2014 bị Toà án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, hiện đã được xoá án tích. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi, phạm tội của mình, bố đẻ bị cáo Lò Đông K là ông Lò Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, bố đẻ của Vàng A D là ông Vàng Cháy M được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất. Nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[5]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo như đã phân tích ở trên. Hội đồng xét xử chấp nhận đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục đồng thời để cai nghiện các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy nghề nghiệp bị cáo làm nông nghiệp, tài sản gia đình không có gì có giá trị, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là những đối tượng nghiện chất ma túy, nên không có điều kiện để thi hành án.

Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

[8]. Về vật chứng vụ án: Gồm 0,08 gam Heroine, hoàn lại sau giám định là chất thuộc Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 01 mảnh giấy bạc đã bị cháy xén, cũ đã qua sử dụng, 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ cũ, đã qua sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy toàn bộ theo Điểm c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) thu giữ của Lò Đông K, là do bị cáo bán ma tuý mà có, nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 500.000đ Vàng A D bán ma tuý cho Lò Đông K vào ngày 02/10/2023, hiện tại Vàng A D đã tiêu xài cá nhân hết. Cần truy thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, màu xanh trắng, nhãn hiệu “4GVOLTE”, tên thiết bị G30, IMEIL1-355221012117159; IMEIL2- 355221012117167, điện thoại cũ đã qua sử dụng, là chiếc điện thoại Vàng A D dùng để liên lạc với Lò Đông K để bán ma tuý ngày 02/10/2023, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với chiếc điện thoại di động, màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “VIVO”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị hỏng, vỡ màn hình, không sử dụng được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông thu giữ của Lò Đông K. Quá trình điều tra, xác minh và tại phiên toà đã làm rõ, Lò Đông K không sử dụng chiếc điện thoại trên để liên lạc vào việc mua ma tuý với Vàng A D vào ngày 02/10/2023. Do vậy, cần trả lại cho bị cáo Lò Đông K theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1-864751067375330; số IMI 2-86475106737532, Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ của Lò Đông K. Quá trình điều tra, xác minh và tại phiên toà đã làm rõ, chiếc điện thoại trên là tài sản hợp pháp của chị Lò Thị Kh, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1971, nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ. Việc Lò Đông K sử dụng chiếc điện thoại trên liên lạc với Vàng A D để mua ma tuý, chị Khan không biết. Do vậy, cần trả lại chiếc điện thoại trên cho chị Lò Thị Kh theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9]. Các vấn đề khác:

- Đối với Lò Văn Th, sinh năm 1989, trú tại bản Mường L 1, xã Mường L, huyện Điện Biên Đ, tỉnh Điện Biên, người mà bị cáo Lò Đông K đã bán 01 cục nhỏ Heroine với giá 100.000đ, vào khoảng 08 giờ sáng ngày 03/10/2023, do Lò Văn Th đã sử dụng hết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu được vật chứng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính, bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. HĐXX thấy hợp lý nên chấp nhận.

- Đối với chiếc xe máy Vàng A D sử dụng làm phương tiện để mang ma tuý xuống khu vực bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ bán cho Lò Đông K. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông, đã điều tra, xác minh chiếc xe là tài sản hợp pháp của chị Hờ Thị Mo, sinh năm 1985, trú tại bản Huổi Va, xã Háng Lìa, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên (người đang chung sống như vợ chồng với Vàng A D), khi Vàng A D sử dụng chiếc xe máy trên để thực hiện hành vi phạm tội chị Hờ Thị Mo không biết. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề nghị truy thu. HĐXX không xem xét.

- Đối với Hờ A Câu theo lời khai của Vàng A D là người đã bán ma tuý cho Dây vào cuối tháng 8/2023. Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm rõ được, nên chưa đề cập xử lý trong vụ án này. HĐXX không xem xét.

[10]. Về án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, đang cư trú nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, HĐXX áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố các bị cáo: Lò Đông K, Vàng A D phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”:

- Xử phạt bị cáo: Lò Đông K 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 03/10/2023).

- Xử phạt bị cáo: Vàng A D 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 03/10/2023).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điểm a, b, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a, b, c Khoản 2; Điểm b Khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy 0,08 gam Heroine hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ cũ, đã qua sử dụng và 01 mảnh giấy bạc đã bị cháy xén, cũ, đã qua sử.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, màu xanh trắng, nhãn hiệu “4GVOLTE”, tên thiết bị G30, IMEIL1- 355221012117159; IMEIL2-355221012117167, điện thoại cũ đã qua sử dụng của Vàng A D.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) thu giữ của Lò Đông K.

- Truy thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Vàng A D.

- Trả lại cho bị cáo Lò Đông K 01 chiếc điện thoại di động, màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “VIVO”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, bị hỏng, vỡ màn hình, không sử dụng được.

- Trả lại cho chị Lò Thị Kh, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1971, nơi cư trú: Bản Na Ngh, xã Phì Nh, huyện Điện Biên Đ 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu xanh, nhãn hiệu “Realme”, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có đặc điểm tên thiết bị “Realme C35”, kiểu máy RMX3511, số IMEI 1- 864751067375330; số IMI 2-86475106737532.

Vật chứng đã được niêm phong và bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên Đông theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 10 giờ 10 phút ngày 01/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên Đông và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Điện Biên Đông.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lò Đông K, Vàng A D.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/3/2024). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/3/2024)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 45/2024/HS-ST

Số hiệu:45/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên Đông - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về