Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 45/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 45/2022/HS-PT NGÀY 05/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 4 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm Phòng xử án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/TLPT-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị V, sinh ngày 01/6/1984 tại huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 9, phường T, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: Tổ dân phố 3, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Dương Thị H; chồng: Anh Đặng Hữu T (đã ly hôn), có 02 con; tiền sự: Không; tiền án: có 01 tiền án: Ngày 26/6/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 35/2018/HSST (đang được hoãn chấp hành án phạt tù theo Quyết định số 03/2021/QĐ-CA ngày 19/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2021 đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Thanh H; sinh năm 1983; trú tại: Khối phố 1, phường B, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt

2. Bà Nguyễn Thị Bích H; sinh năm 1963; trú tại: Tổ dân phố 3, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt

- Người chứng kiến:

1. Anh Lê Văn Đ; sinh năm 1982; trú tại: Tổ dân phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt

2. Bà Dương Thị C; sinh năm 1966; trú tại: Tổ dân phố 3, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt

3. Ông Trần Văn D; sinh năm 1964; trú tại: Tổ dân phố 3, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Công chức Tòa án nơi đặt điểm cầu thành phần hỗ trợ tổ chức phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thắm, bà Nguyễn Thị Hải Thuần, có mặt

+ Cán bộ, chiến sỹ dẫn giải bị cáo tại điểm cầu thành phần Trại Tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh: Các đồng chí Bùi Thiên Tài, Phạm Hữu Thế, Trần Viết Nhật – thành viên Tổ dẫn giải, có mặt

+ Lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh: Đồng chí Trần Mạnh Hùng, chức vụ: Đội trưởng Đội Hỗ trợ Tư pháp và Quản lý kho vật chứng – Công an tỉnh Hà Tĩnh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 21-02-2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 12 giờ 25 phút ngày 29/8/2021 tại khu vực trước nhà số 76 đường Nguyễn Huy Oánh thuộc phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, tổ công tác Công an thành phố T phát hiện Nguyễn Thị V có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra thì V lấy từ trong túi áo đang mặc 01 túi ni lông đựng chất tinh thể màu trắng vứt xuống đường cạnh chỗ Việt đang đứng. Lực lượng Công an bắt giữ Nguyễn Thị V và kiểm tra túi ni lông Việt vừa ném xuống đường là 01 túi ni lông trong suốt kích thước 04cm x 08cm đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, Nguyễn Thị V khai nhận là ma túy dạng đá mang đi bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang.

Vào hồi 15 giờ 00 cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở do Nguyễn Thị V thuê tại phòng 303 chung cư mini số 11 đường Sử Hy Nhan, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh thu giữ trên giá sách trang trí trong phòng ngủ 01 hộp nhựa trong suốt chứa 01 túi ni lông đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 cốc nhựa màu đen chứa 02 túi ni lông trong suốt đều đựng chất tinh thể màu trắng và một số tang vật có liên quan, Nguyễn Thị V khai nhận 03 gói ni lông đựng chất tinh thể màu trắng thu giữ trong phòng 303 là ma túy dạng đá Việt cất giấu để bán kiếm lời.

Tại bản Kết luận giám định số 155/GĐMT-PC09 ngày 01/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể màu trắng đựng trong túi ni lông trong suốt ký hiệu M1, M2, M3, M4 kích thước 4cm x8cm gửi giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 9,6948 gam; Chất tinh thể màu trắng đựng trong túi ni lông trong suốt kích thước 2,5cm x2,5cm gửi giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,2501 gam; Chất tinh thể màu trắng đựng trong túi ni lông trong suốt kích thước 2cm x2cm gửi giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,3813 gam; Chất tinh thể màu trắng đựng trong túi ni lông trong suốt kích thước 2,5cm x2,5cm gửi giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,7864 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II.C, STT 323, Nghị định số 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận nêu trên của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Thị V khai nhận: Khoảng đầu tháng 8/2021, Nguyễn Thị V nảy sinh ý định mua ma túy dạng đá để bán kiếm lời nên Việt một mình đón xe buýt ra khu vực chợ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An mua 3.000.000 đồng ma túy dạng đá và 01 cân tiểu ly của một người đàn ông lái xe ôm không quen biết (Việt không nhớ rõ đặc điểm người bán ma túy). Sau đó, Việt mang ma túy về chia nhỏ thành 04 túi ni lông và cất giấu tại phòng 303 chung cư mini số 11 đường Sử Hy Nhan thuộc phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh để bán. Khoảng hơn 09 giờ ngày 29/8/2021 có số điện thoại 0776218283 của một người đàn ông tự giới thiệu tên Đức ở thành phố T gọi vào số điện thoại 0941929669 của Nguyễn Thị V hỏi mua 3.500.000 đồng ma túy dạng đá. Nguyễn Thị V đồng ý và hẹn người đàn ông tên Đức ra công viên Trần Phú thuộc phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh để giao ma túy. Đến khoảng 12 giờ 25 phút cùng ngày, Nguyễn Thị V cầm 01 gói ni lông kích thước 04cm x 08cm đựng 9,6948 gam Methamphetamine bỏ vào túi áo đi bộ ra điểm hẹn để bán ma túy. Khi đi đến khu vực trước nhà số 76 đường Nguyễn Huy O, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật. Số ma túy còn lại Việt cất giấu trong phòng 303 chung cư mini số 11 đường Sử Huy Nhan, phường N, thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh (là nhà thuê của bà Dương Thị Chính) bị Cơ quan điều tra khám xét thu giữ 03 gói ni lông đựng 1,4178 gam Methamphetamine và một số đồ vật có liên quan. Nguyễn Thị V khai nhận toàn bộ số ma túy Nguyễn Thị V cất giấu tại phòng 303 chung cư mini số 11 đường Sử Huy Nhan là nhằm mục đích để bán kiếm lời.

Về vật chứng: 11,1126 gam Methamphetamine (sau khi trừ mẫu giám định còn lại 11,0256 gam Methamphetamine), 01 điện thoại hiệu OPPO F9 màu xanh ngọc có số thuê bao 0941929669, 01 hộp nhựa kích thước 08cm x 06cm x 09cm, 01 cốc nhựa màu đen đường kính miệng 7,5cm, 01 cân tiểu ly điện tử và 10 túi ni lông trong suốt kích thước 4,5cm x 7,5cm.

Hành vi của Nguyễn Thị V đã bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh xét xử tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 21-02-2022. Căn cứ điểm i, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố Nguyễn Thị V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Thị V 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Căn cứ khoản 2 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 24 tháng tù của Bản án số 35/2018/HSST ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, buộc Nguyễn Thị V phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 29/8/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03 tháng 3 năm 2022, bị cáo Nguyễn Thị V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, phần tranh luận bị cáo không có ý kiến gì. Lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn, xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của những người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Xét thủ tục kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, đơn kháng cáo trong hạn luật định nên được chấp nhận về thủ tục kháng cáo.

[3] Xét nội dung kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thị V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về nuôi dạy các con, làm người lương thiện.

[3.1] Xét hành vi phạm tội bị cáo thực hiện:

Bị cáo Nguyễn Thị V thực hiện hành vi mua bán ma túy với khối lượng 11,1126 gam Methamphetamine. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý nên phải chịu các tình tiết định khung tăng nặng quy định tại các điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3.2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy. Ma túy là hiểm họa, nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự, ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội, tổn hại về sức khỏe con người, làm đảo lộn cuộc sống bình yên của nhiều gia đình. Hiện nay, tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng về số lượng, phương thức hoạt động và thủ đoạn tinh vi gây nhiều khó khăn cho lực lượng chức năng trong đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa loại tội phạm này. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” được hoãn chấp hành hình phạt do nuôi con nhở dưới 36 tháng tuổi nay lại tiếp tục phạm tội. Điều đó thể hiện, Nguyễn Thị V không có ý thức cải tạo, giáo dục để trở thành công dân tốt.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được áp dụng: “Thành khẩn khai báo”, có bố được tặng thưởng Huân chương chiến công Hạng ba quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, xử phạt 08 năm 06 tháng tù là có căn cứ, phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, hiện đã ly hôn, con còn nhỏ, khi bị bắt đến nay nhờ chị gái nuôi dưỡng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thái độ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo, sửa bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 21-02-2022 của Tòa án nhân dân thành phố T về phần hình phạt, giảm 06 tháng tù là có căn cứ.

[3.3] Áp dụng khoản 2 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo chấp hành chung hai bản án theo quy định.

[3.4] Về hình phạt bổ sung: Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo với lý do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, hiện đang bị tạm giam là đúng quy định tại khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị V, sửa bản án sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 21-02-2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh về phần hình phạt.

- Áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố Nguyễn Thị V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Thị V 08 (tám) năm tù.

Căn cứ khoản 2 Điều 56, Điều 104 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 24 tháng tù của Bản án số 35/2018/HSST ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Hà Tĩnh, buộc Nguyễn Thị V phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 10 (mười) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 29/8/2021.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Thị V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 45/2022/HS-PT

Số hiệu:45/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về