Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 446/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 446/2023/HS-PT NGÀY 16/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/6/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 1176/2022/TLPT-HS ngày 29/11/2022 do có kháng cáo của bị cáo Bùi Đức A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

* Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Đức A, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/6/1995, tại Nghệ An;

Nơi cư trú: Thôn 1, xã TS, huyện AS, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Bùi Đức L, sinh năm 1968 và con bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1971. Vợ: Lê Thị Thùy L1, sinh năm 1998 và có 01 con là Bùi Thị Khánh V, sinh năm 2021. Anh chị em ruột 03 người, bị cáo con thứ 2 trong gia đình; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/8/2019, Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh BD xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 246/2010/HS-ST. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 12/12/2019; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 04/01/2022 đến nay, có mặt.

* Người bào chữa cho Bùi Đức A: Ông Trần Thanh M, Luật sư Văn phòng Luật sư CT, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An và ông Nguyễn Văn H Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyễn Thiên H1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông, đều có mặt.

* Ngoài ra trong vụ án còn có: Bị cáo Hồ Sỹ T, Trần Văn M1 và Lê Văn T2 không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2016, Hồ Sỹ T làm ăn sinh sống tại nước Lào có quen biết với hai người đàn ông tên Đ và T3 người dân tộc H’Mông, quốc tịch Lào đều trú tại bản NB, huyện KC, tỉnh Polykhamxay, nước Lào. Sau khi về Việt Nam, khoảng 11 giờ ngày 16/12/2021, Đ có liên lạc với T qua ứng dụng Zalo thông báo có 04 (Bốn) kg ma túy đá đang ở tỉnh BD nhờ T bán hộ, T đồng ý và đã liên lạc với Bùi Đức A bảo tìm người mua ma túy. Đức A đồng ý và giới thiệu cho T người đàn ông tên T4 (T không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể) nhà ở khu vực phường BH, thành phố TA, tỉnh BD. T đến gặp T4 bàn bạc thống nhất 01 kg ma túy đá có giá 200.000.000đ nhưng T4 yêu cầu phải kiểm tra chất lượng ma túy trước, T đồng ý rồi liên hệ Đ để nhận ma túy. Khoảng 19 giờ ngày 16/12/2021 T đi đến khu vực Big C DA, tỉnh BD để nhận ma túy. Khi đến nơi, T thấy một thùng xốp để ven đường nên đưa về cho T4 kiểm tra, nhưng ma túy không đạt chất lượng nên T4 không mua. Sau đó, T đưa số ma túy trên về cất dấu gần phòng trọ của T tại khu phố ĐA, phường BH, T3 phố TA, tỉnh BD.

Ngày 25/12/2021, T liên lạc với Trần Văn M1 qua ứng dụng Facebook nhờ M1 nhận số ma túy T gửi từ tỉnh BD về huyện AS để cất giấu giúp T, M1 đồng ý. Ngày 26/12/2021, T nhờ Nguyễn Văn T5 (sinh năm 2000, trú tại thôn 5, xã HS, huyện AS, tỉnh Nghệ An) làm phụ xe khách nhà xe PV tuyến Bắc - Nam gửi một bức tranh và thùng cattong chứa ma túy đưa về huyện AS, tỉnh Nghệ An với giá cước 100.000 đồng (T5 không biết trong thùng cattong có chứa ma túy). Sáng ngày 27/12/2021 do T không liên lạc được với M1 nên đã gọi Lê Văn T2 qua ứng dụng Facebook nhờ đến nhà để thức M1 dậy. Tại đây, T nói chuyện nhờ M1 và T2 đi lên nhà Nguyễn Văn T5 để nhận tranh và thùng cattong giúp T. T không cho T2 biết trong thùng cattong chứa ma túy. Sau khi nói chuyện với T xong thì M1 tiếp tục ngủ, Lê Văn T2 đã lấy xe máy của M1 đi lên nhà T5 để nhận tranh và thùng cattong đưa về nhà M1. Tại đây, M1 và T2 cùng mở thùng cattong ra kiểm tra thì thấy bên trong có 03 gói nilong màu vàng và 01 gói nilong màu đen bên trong đều chứa ma túy đá. M1 và T2 lấy trong gói dở ra một ít ma túy đá để sử dụng. Sau đó, T2 đi về nhà còn M1 gói lại số ma túy trên rồi cất vào nhà rơm bên cạnh nhà M1.

Theo Bùi Đức A khai, khoảng 17 giờ ngày 02/12/2021, Nguyễn Thị S (sinh năm 2000, trú tại xã LS, huyện AS, tỉnh Nghệ An là người có mối quan hệ quen biết từ trước) sử dụng số điện thoại: 0985827XXX liên lạc với Bùi Đức A theo số điện thoại 0763012XXX hỏi có người cần mua ma túy. Bùi Đức A đồng ý và nói S nếu hỏi được sẽ liên lạc lại sau. Khoảng 19 giờ ngày 03/01/2022, Đức A liên hệ T nói có ma túy bán không thì T nói: “Có, còn 04 kg ma túy đá, đang ở huyện AS”. Đức A muốn lấy một ít ma túy đá để cho khách thử. T đồng ý rồi liên hệ với Trần Văn M1 lấy một ít ma túy đá từ số ma túy của T gửi trước đó, đưa đến giấu tại cây cột điện ngã ba thôn 3 xã HS, AS rồi chụp ảnh, gửi vị trí cho T qua ứng dụng Zalo. Sau đó, T lại gửi vị trí cất mẫu ma túy cho Bùi Đức A để lấy đưa cho S thử. Sau khi S kiểm tra thì đồng ý mua và thống nhất 01 kg ma túy đá với giá 180.000.000 đồng. Khoảng 07 giờ ngày 04/01/2022, S gọi điện thoại cho Bùi Đức A thông báo người mua ma túy đang đợi ở cây xăng thị trấn AS, huyện AS. Bùi Đức A điện thoại lại cho T hỏi vị trí cất giấu ma túy; T nói sẽ báo vị trí sau rồi liên lạc với M1 đưa số ma túy lên nghĩa trang xã HS, huyện AS để bên đường rồi chụp ảnh, gửi vị trí lại cho T. Khi Bùi Đức A đến cây xăng thị trấn AS thì gặp một người đàn ông đi xe ô tô đang đợi ở đó (Bùi Đức A không biết lai lịch, địa chỉ và đặc điểm, biển kiểm soát xe ô tô mà người này sử dụng); biết đó là người mua ma túy nên Bùi Đức A lên xe ngồi bên ghế phụ rồi đi đến vị trí để ma túy theo hướng dẫn của T. Sau khi lấy được ma túy đưa lên xe ô tô, Bùi Đức A mở ra thấy bên trong 03 gói nilong màu vàng và 01 gói nilong màu đen, trên đường đi Bùi Đức A ngồi ôm giữ số ma túy này. Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, khi xe ô tô đang di chuyển trên Quốc lộ 7A thuộc địa phận Thôn 1, xã HS, huyện AS, tỉnh Nghệ An thì bị lực lượng Công an dừng kiểm tra. Khi đang tiến hành kiểm tra Bùi Đức A cùng số ma túy mang theo thì lợi dụng sơ hở, người đàn ông điều khiển xe ô tô bỏ chạy.

- Tại Kết luận giám định số 126/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 08/01/2022 của Phòng Kỷ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Nghệ An: 04 mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Bùi Đức A gửi tới giám định đều là ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 3.713,99 gam.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2022/HS-ST, ngày 06/9/20202của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Bùi Đức A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Đức A mức án Tử hình, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn xử phạt Hồ Sỹ T tử hình, Trần Văn M tù chung thân đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt Lê Văn T2 24 tháng tù về tội “Không tố giác tội phạm”; bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/9/2022 bị cáo Hồ Sỹ T và ngày 12/9/2022 bị cáo Bùi Đức A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm được mở ngày 20/4/2023, bị cáo Hồ Sỹ T đã rút toàn bộ nội dung kháng cáo, do đó Hội đồng xét xử đã đình chỉ xét xử đối với kháng cáo của bị cáo Hồ Sỹ T.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Đức A giữ nguyên nội dung kháng cáo.

- Bị cáo Bùi Đức A trình bày: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả; bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận nên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo T3 khẩn và khai ra các bị cáo khác trong vụ án; bị cáo có ông nội là cán bộ tiền khởi nghĩa, cố ngoại là mẹ Việt Nam anh hùng; gia đình bị cáo có nhiều người có công, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật; tại cấp phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới đáng kể nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Luật sư Nguyễn Văn H bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt; chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Do xuất phát từ việc bị cáo Bùi Đức A quen biết với Hồ Sỹ T, nên đã liên lạc cho Hồ Sỹ T hỏi mua ma túy khi có chị S đặt mua đối với bị cáo; giữa bị cáo Bùi Đức A và Hồ Sỹ T không có bàn bạc gì mà chỉ là sự kết nối bình thường; bị cáo hoàn toàn bị động, không chủ ý; bị cáo đồng phạm nhưng với vai trò thứ yếu, không có lợi ích vật chất; trong vụ án này nếu so sánh thì bị cáo là vai trò thứ ba, sau Trần Văn M, nhưng Trần Văn M chỉ bị xử tù chung thân, còn bị cáo bị xử tử hình là không công bằng; bị cáo có ông nội là cán bộ tiền khởi nghĩa, cố ngoại là bà mẹ Việt Nam anh hùng, ông cậu là liệt sỹ; bản thân bị cáo tuổi đời còn non trẻ, con còn nhỏ là con trai duy nhất trong gia đình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Luật sư Trần Thanh M bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với quan điểm của Luật sư Nguyễn Văn H; bản thân bị cáo tuổi đời còn non trẻ, hiện đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, theo Công văn số 212 của Tòa án nhân dân tối cao thì Hội đồng xét xử có thể vận dụng để áp dụng là T tiết giảm nhẹ này cho bị cáo; bản thân bị cáo có nhiều người có công cho đất nước, nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Bùi Đức A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đặc biệt là biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 16/12/2021, tại khu vực BigC DA, tỉnh BD Hồ Sỹ T đã nhận 04 kg ma túy đá của hai người đàn ông tên Đ và T3 là người Lào để bán hộ để kiếm lời. Ngày 26/12/2021, T gửi số ma túy về huyện AS, tỉnh Nghệ An. Ngày 02/12/2021 có người phụ nữ tên S gọi điện cho Bùi Đức A đặt vấn đề mua ma túy, Bùi Đức A gọi điện hỏi Hồ Sỹ T còn ma túy không để bán thì được Hồ Sỹ T thông báo còn 04 kg ma túy đá đang cất giấu tại huyện AS, tỉnh Nghệ An; sau đó Bùi Đức A đã lấy một ít để đưa cho S thử, sau khi thử xong thì S đồng ý mua ma túy của Bùi Đức A. Khoảng 07 giờ ngày 04/12/2021, S gọi điện thông báo cho Bùi Đức A biết là người mua ma túy đang đợi ở cây xăng thuộc thị trấn huyện AS, tỉnh Nghệ An; Bùi Đức A gọi điện cho Hồ Sỹ T hỏi địa điểm cất dấu ma túy, Hồ Sỹ T đã gửi vị trí cất giấu ma túy cho Bùi Đức A; sau đó Bùi Đức A đến cây xăng thuộc thị trấn huyện AS thì gặp một người đàn ông đang ngồi trên xe ô tô, biết đó là người mua ma túy nên Bùi Đức A lên xe ngồi rồi đi đến vị trí cất dấu ma túy mà Hồ Sỹ T đã gửi vị trí. Sau khi Bùi Đức A cùng người khách lấy được ma túy đưa lên xe ô tô khi đang vận chuyển đến khu vực thuộc địa phận thôn 1, xã HS, huyện AS, tỉnh Nghệ An thì bị bắt quả tang, thu giữ 3.713,99 gam ma túy Methamphetamine. Hành vi đó của Bùi Đức A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội danh trên theo Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến T hình trật tự trị an ở địa phương. Khi bắt quả tang Bùi Đức A, cơ quan điều tra thu giữ tổng khối lượng là 3.713,99 gam Methamphetamine. Vì vậy, cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử bị cáo theo điểm b khoản 4 điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Đức A, Hội đồng xét xử thấy: Trong vụ án này, mặc dù ma túy là của Hồ Sỹ T, nhưng chính bị cáo Bùi Đức A đã chủ động gọi điện hỏi Hồ Sỹ T có ma túy không để Bùi Đức A bán cho đối tượng tên S; khi được Hồ Sỹ T cho biết là có ma túy thì chính bị cáo Bùi Đức A đã chủ động liên hệ với đối tượng tên S thông báo là đã có ma túy, đồng thời lấy ma túy cho S thử và tự thống nhất giá cả với S, nên hành vi mua bán ma túy giữa bị cáo Bùi Đức A với đối tượng tên S là độc lập với Hồ Sỹ T và các bị cáo khác trong vụ án, nên bị cáo phải chịu vai trò chính trong việc mua bán ma túy bị bắt quả tang. Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất rất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng khối lượng ma tuý các bị cáo mua bán là 3.713,99 gam Methamphetamine; cũng như Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, như: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là những T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; tại cấp phúc thẩm gia đình bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện ông nội của bị cáo là cán bộ tiền khởi nghĩa, cố ngoại của bị cáo là bà mẹ Việt Nam anh hùng, có một số ông cậu là liệt sỹ và thương binh; nhưng với khối lượng chất ma túy bị cáo mua bán là đặc biệt lớn, bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án bằng hình phạt tù nghiêm khắc nhưng không lấy đó làm bài học, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án cao nhất của khung hình phạt là có căn cứ, không cao. Những T tiết tại cấp phúc thẩm không đáng kể so với hành vi phạm tội của bị cáo, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Đức A; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tuyên bố bị cáo Bùi Đức A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Đức A Tử hình, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Bùi Đức A có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

Về án phí: Bị cáo Bùi Đức A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 125/2022/HS-ST ngày 06/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 446/2023/HS-PT

Số hiệu:446/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về