TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 42/2024/HS-ST NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16/01/2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 564/2023/TLST-HS ngày 07/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 731/2023/QĐXXST- HS ngày 14/12/2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Viết L, sinh năm 1966 tại Thành phố Hà Nội; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Tổ dân phố A, thị trấn T, huyện G, TP Hà Nội; Giới tính: Nam; Quốc tich: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/10; Nghề nghiệp: Không; Côn ông: Nguyễn Viết B; Con bà: Đinh Thị L1; Vợ: Lê Thị M (Đã ly hôn) có 01 con, sinh năm 1988; Vợ (vợ hiện tại): Lê Thị N;
Tiền án : có 01tiền án: Ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân quận Long Biên xử 1 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 13/10/2021;
Tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 28/4/1992, TAND huyện Gia Lâm xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 36 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 13/12/2001, TAND tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 11/3/2005, TAND huyện Gia Lâm xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 12/01/2007, TAND huyện Gia Lâm xử phạt 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/7/2023. Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố H. (Có mặt tại phiên tòa ).
2. Hoàng Xuân L2, sinh năm 1983, tại Thành phố Hà Nội; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Đội 13, thôn K, xã Đ, huyện G, TP Hà Nội; Giới tính Nam; Quốc tich: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ: Lớp 8/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Hoàng Xuân L3; Con bà: Nguyễn Thị N1; Vợ: Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1996 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Bản án số 1998/HSST ngày 11/6/2007, TAND quận Hoàng Mai xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 16 tháng vể tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 09/11/2007, TAND quận Thanh Xuân xử 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tổng hợp với 08 tháng tù của bản án số 1998/HSST ngày 11/6/2007 của TAND quận Hoàng Mai, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 20 tháng tù; Ngày 30/12/2013, TAND quận Tây Hồ xử 27 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/7/2023. Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố H. ( Có mặt tại phiên tòa ).
3. Nguyễn Văn N2, sinh 1993 tại tỉnh Hưng Yên; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã H, huyện Y, tỉnh Hưng Yên; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Văn H; Con bà: Lê Thị Đ (Đã mất); Vợ: Lê Thị Tố Q (Đã ly hôn), có 01 con, sinh năm 2012.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/7/2023. Hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố H. (Có mặt tại phiên tòa)
*Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết L: Luật sư Lê Thị Hải Y – Công ty L5, Đoàn luật sư Thành phố H.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị N, sinh năm 1975; Trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn T, huyện G, Thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ, ngày 13/7/2023, tại khu vực dốc Đa Tốn lên Đ, xã Đ, huyện G, Hà Nội, Công an thành phố H (PC04) phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn N2, Hoàng Xuân L2 có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của Hoàng Xuân L2: 01 gói nilon màu trắng, bên trong là giấy bạc màu trắng, trong cùng là chất bột màu trắng, 01 điện thoại Mastel màu đen trong gắn 01 thẻ sim; T của Nguyễn Văn N2 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng số thuê bao 0355702X, 01 xe máy BKS: 89F9-Y.
Bản kết luận giám định số 4842/KL-KTHS ngày 21/7/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận:“ Chất bột màu trắng trong 01gói giấy bạc màu trắng bên ngoài bọc nilon màu trắng là ma túy loại Heroin, khối lượng: 0,950gam” Tại cơ quan điều tra Hoàng Xuân L2 khai khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/7/2023 L2 và Nguyễn Văn N2 rủ nhau góp tiền đi mua ma tuý về sử dụng. L2 sử dụng số điện thoại 0359461X gọi điện vào số 0912855X cho Nguyễn Viết L, sinh năm 1966, ở tại: Ngách F A, thị trấn T, huyện G, Hà Nội hỏi mua gói Heroine giá 500.000 trăm nghìn đồng. Nguyễn Viết L đồng ý và hẹn L2 đến nhà L để giao dịch mua bán ma tuý. Hoàng Xuân L2 điều khiển xe máy đến đầu ngõ F, A, thị trấn T, G thì dừng xe để N2 đứng ngoài chờ còn L2 đi bộ vào nhà L tại số D ngách A, 3 ngõ F, Tổ dân phố A, thị trấn T, G gọi L ra và đưa cho L 500.000 đ (năm trăm nghìn đồng). L nhận tiền và đưa cho L2 một túi nilông màu trắng bên trong có chứa Heroin. Hoàng Xuân L2 cầm túi ma tuý cho vào túi quần bên phải phía trước rồi ra xe máy cùng N2 đi tìm nơi để sử dụng ma tuý. Khi cả hai đi đến khu vực dốc Đa Tốn lên Đ, xã Đ, huyện G, Hà Nội thì bị kiểm tra bắt giữ. Hoàng Xuân L2 khai đã mua ma tuý của L hai lần và nhận dạng được L là người bán ma tuý cho L2.
Nguyễn Văn N2 khai nhận phù hợp với lời khai của Hoàng Xuân L2 và khai đã hai lần cùng L2 mua ma tuý của L để sử dụng.
Mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Viết L tại địa chỉ Số D Ngách F A, thị trấn T, huyện G, Hà Nội phát hiện thu giữ:
Tại đầu giường ngủ tầng 2:
- 01 lọ nhựa không có nắp màu xanh bên trong có chất bột màu trắng - 01 túi nilong màu xanh kích thước khoảng (6x12) cm bên trong có 04 gói nilong màu đen trong là giấy màu trắng trong cùng là chất bột màu trắng và 01 gói nilong màu xanh trong là giấy trắng trong cùng là chất bột màu trắng.
- 01 túi nilong màu xanh kích thước khoảng (6x12) cm bên trong chứa chất bột màu trắng.
trắng - 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (5x7) cm bên trong tinh thể màu trắng - 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (3x5) cm bên trong tinh thể màu - 01 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (3x5) cm bên trong chứa 05 viên nén màu xanh hình con gấu - 01 túi nilong màu xanh kích thước khoảng (6x8) cm bên trong chứa các viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên có chữ WY;
- 01 cân điện tử màu trắng kích thước (12x5x1) cm trên mặt cân có dính chất bột màu trắng.
Thu giữ tại túi đeo chéo màu đen trên người Nguyễn Viết L đang đeo có:
- 01 điện thoại di động màu ghi có chữ Nokia số thuê bao 0366643X;
- 01 điện thoại di động màu đen trắng có chữ Nokia không có sim;
- 01 điện thoại di động màu vàng ghi chữ Iphone số thuê bao 0396499X;
- 01 điện thoại di động màu xanh có hình quả táo khuyết có số thuê bao 0912855X và 25.000.000 đồng; 01 xe máy nhãn hiệu SH màu đen BKS:37K1- X.
Thu giữ trên người chị Lê Thị Thanh N3 (vợ Nguyễn Viết L) 01 điện thoại màu ghi có hình quả táo khuyết có số thuê bao 0346193X.
Bản kết luận giám định số 4843/KL-KTHS ngày 21/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
- Chất bột màu trắng trong 01 lọ nhựa không có nắp màu xanh ghi chữ WiGer, 04 gói giấy màu trắng bên ngoài bọ nilông màu đen, 01 gói giấy màu trắng bọc nilông màu xanh và 01 túi nilông màu xanh đều là ma tuý loại Heroine, tổng khối lượng: 89,380 gam.
- Tinh thể màu trắng trong túi nilông màu trắng là Ketamine, khối lượng:
9,193 gam.
- Tinh thể màu trắng bên trong túi nilong màu trắng là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 4,519 gam.
- 05 viên nén màu xanh hình con gấu bên trong 01 túi nilông màu trắng đều là ma tuý loại MDMA, tổng khối lượng: 1,744 gam - Các viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có chữ WY bên trong 01 túi nilông màu xanh đều là ma tuý loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 15,784 gam + 02 cân điện tử màu trắng đều có dính ma tuý loại Heroine.
Bản kết luận giám định số 6254/KL-KTHS ngày 21/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
Xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH đeo biển kiểm soát: 37K1-X:
- Bề mặt kim loại vị trí số khung của xe bị han gỉ, xác định số khung nguyên thuỷ của xe là: *ZDCKF08A06F069253* - Số máy nguyên thuỷ: KF08E*0049981*KTGE1.
Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Viết L khai nhận bản thân nghiện ma tuý nên tìm người bán ma tuý để mua về bán lẻ kiếm lời được khoảng hơn 1 tháng.
Về nguồn gốc số ma tuý bán cho L2, N2 và số ma tuý thu giữ tại nhà L khai mua của một người nam giới không quen biết. Người nam giới mang ma tuý và 02 cân điện tử đến nhà bán cho L với giá 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng), sau khi mua được ma tuý L cất giấu số ma tuý mua được tại nhà để sử dụng và bán lại cho khách. Trung bình một ngày L bán cho khoảng 2 đến 3 khách nghiện, mỗi khách bán 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) tiền H1. Khoảng 12 giờ ngày 13/7/2023, L bán cho Hoàng Xuân L2 một gói Heroin với giá 500.000 đồng, phù hợp với lời khai của L2. Số ma tuý còn lại bị công an thu giữ khi khám xét.
Kiểm tra điện thoại thu giữ của Hoàng Xuân L2 có các cuộc gọi phù hợp với lời khai nhận tội của L2, L.
Về nguồn gốc số tiền 25.000.000 đồng bị thu giữ của Nguyễn Viết L, L khai là tiền bán ma tuý có.
Tại bản Cáo trạng số 523/CT-VKS-P1 ngày 01/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Viết L về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
- Tại phiên toà: Các bị cáo Nguyễn Viết L, Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật và không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản luật mà Viện kiểm sát áp dụng truy tố các bị cáo.
6 Các bị cáo thừa nhận những lời khai của các bị cáo tại quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và phù hợp với thực tế diễn biến hành vi phạm tội của các bị cáo. Các bị cáo ăn năn về hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.
+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa: Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s,t khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Viết L; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Viết L từ 18 năm đến 19 năm tù về tội“Mua bán trái phép chất ma tuý”; Hoàng Xuân L2 từ 18 tháng đến 24 tháng tù và Nguyễn Văn N2 từ 15 tháng đến 18 tháng tù cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Về hình phạt bổ sung: Vì các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng là ma túy, vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành đã bị thu giữ trong quá trình điều tra và 01 cân điện tử.
- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước: 03 điện thoại di động đã thu giữ của các bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy ( trong đó: 01 điện thoại di động Masstel của L2; 01 điện thoại di động Nokia của N2 và 01 điện thoại di động Iphone của L);
01 xe máy SH BKS 37K1 - X; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Anger, BKS 89F9 – Y các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội.
Đối với số tiền 25.000.000 đồng thu giữ tại nhà của Nguyễn Viết L, bị cáo khai là tiền con bị cáo cho bị cáo để chi tiêu cá nhân nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
7 Trả lại bị cáo L 3 điện thoại di động (2 điện thoại N5 và 01 điện thoại Iphone) do không liên quan đến hành vi phạm tội.
Trả lại chị Lê Thị N3 – vợ bị cáo L 1 điện thoại di động Iphone màu ghi, imei 3538961053X47 do không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Viết L là Luật sư Lê Thị Hải Y có quan điểm: Nhất trí với cáo trạng truy tố về hành vi phạm tội của L. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Giai đoạn điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải khai nhận hành vi phạm tội của mình, đó là tình tiết đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo đã nhiều tuổi, sức khoẻ yếu, bị bệnh tiểu đường, huyết áp, tim mạch; gia đình có bố có công với cách mạng, ông trẻ là liệt sỹ; bị cáo đã từng tham gia quân đội; giai đoạn điều tra tích cực hợp tác với cơ quan điều tra. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, áp dụng điểm s,t khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Đối với số tiền 25.000.000 đồng là tiền con bị cáo cho bị cáo để chi tiêu, không phải là tiền mua bán ma tuý nên đề nghị trả lại cho bị cáo. Xe máy SH của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, không có giấy tờ nhưng bị cáo khai đã mua lại của người không quen biết và cơ quan điều tra không chứng minh được xe do phạm tội mà có nên trả lại cho bị cáo.
gì:
- Bị cáo L nhất trí với lời bào chữa của Luật sư và không có ý kiến bổ sung - Các bị cáo Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi , tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
1. Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
8 Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại và hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vây, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
2. Hành vi phạm tội và tội danh:
Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố. Xét lời khai của các bị cáo, người liên quan, người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 00 ngày 13/07/2023, tại khu vực dốc Đa Tốn lên Đ, xã Đ, huyện G, Hà Nội, Công an thành phố H (PC04) phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn N2, Hoàng Xuân L2 có hành vi tàng trữ trái phép 0,950 gam Heroine mục đích để sử dụng. Tại chỗ Hoàng Xuân L2 khai mua số ma túy trên của Nguyễn Viết L.
Tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Viết L thu giữ 89,380 gam Heroine;
9,193 gam Ketamin; 1,744 gam MDMA; 20,303 gam Methamphetamine. L khai nhận đã bán cho Hoàng Văn L4 0,950 gam heroin và số ma túy mà công an thu giữ là của L mua về để sử dụng và bán. Nguyễn Viết L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán 90,330 gam Heroine; 9,193 gam Ketamine; 1,744 gam MDMA;
20,303 gam Methamphetamine. Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép 0,950 gam Heroine.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Viết L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi của Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Hành vi phạm tội của các bị cáo L2 và N2 là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo L là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức pháp luật đầy đủ, nhận thức rõ tác hại và hậu quả của việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi và tàng trữ để thoả mãn nhu cầu sử dụng các bị cáo vẫn phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của các bị cáo không những gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà còn là nguyên nhân gây lan truyền tệ nghiện ngập ma tuý, làm huỷ hoại nhân cách, sức khỏe người sử dụng, huỷ hoại hạnh phúc gia đình và có nguy cơ tiềm ẩn các loại tội phạm khác. Do đó, cần thiết phải khởi tố, truy tố và đưa ra xét xử các bị cáo và áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, hậu quả mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng, nhức nhối trên địa bàn thủ đô và cả nước.
Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Viết L là người giữ vai trò đầu vụ, bị cáo L đã có hành vi bán heroin cho L2 và N2, ngoài ra khi mở rộng điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ tại nhà bị cáo Luận H2 và các chất ma tuý khác gồm K, M1, MDMA. Bị cáo khai mua về để sử dụng và để bán.
Bị cáo Lâm giữ vai trò thứ 2 sau L và vai trò cao hơn N2. Khi bị cáo L2 và N2 rủ nhau góp tiền mua ma tuý về sử dụng thì bị cáo L2 là người chủ động điện thoại cho L để liên hệ mua ma tuý. Khi đến nhà L thì bị cáo L2 là người trực tiếp giao dịch mua ma tuý với L, N2 chỉ đi cùng và đứng bên ngoài chờ. Vì vậy, L2 chịu hình phạt cao hơn N2 và thấp hơn L.
[4]. Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội:
Đối với bị cáo L: Có nhân thân xấu, có 4 tiền án đã được xoá. Ngoài ra, năm 2017, bị Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử 7 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, ra trại ngày 13/10/2021. Như vậy, bị cáo đã bị xét xử về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội về 10 tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo phải áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự “Tái phạm nguy hiểm” để xét xử đối với bị cáo. Về tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khái báo và ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án để nhanh chóng kết thúc vụ án; bố bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì; bị cáo có ông trẻ là liệt sỹ; bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ, phục vụ trong quân đội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình. Xét thấy, bị cáo L có nhiều tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử có thể áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, đấu tranh, phòng ngừa và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.
Đối với bị cáo L2: có nhân thân xấu, có 3 tiền án đã xoá nhưng vẫn không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Đối với bị cáo N2: Nhân thân chưa tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi xem xét lượng hình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Đối với cả 2 bị cáo L2 và N2, quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho các bị cáo.
[5]. Các vấn đề khác của vụ án:
Về nguồn gốc chiếc xe máy nhãn hiệu Anger BKS 89F9-Y thu của Nguyễn Văn N2. N2 khai của mẹ để lại trước khi mất. Kết quả xác minh Tại Phòng K1 không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Xác minh tại Phòng C, người đăng ký sở hữu là anh Nguyễn Văn T1, sinh năm: 1972, HKTT và ở: thôn B, xã H, huyện K, Hưng Yên. Tại Cơ quan điều tra anh T1 khai mua chiếc xe máy trên năm 2004 đến năm 2008 đã bán và giao giấy tờ xe cho người mua. Do thời gian đã lâu nên anh T1 không nhớ đã bán cho ai.
11 Kết quả xác minh biển kiểm soát của xe máy nhãn hiệu SH BKS: 37K1-X thu của bị can Nguyễn Viết L: Tại Phòng Cảnh sát hình sự không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Tại Phòng Cảnh sát giao thông, người đăng ký sở hữu BKS: 37K1-X là chị Nguyễn Thị T2, sinh năm: 1999, HKTT và ở: xóm A, N, N, Nghệ An. Kết quả xác minh tại công an xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An hiện chị Nguyễn Thị T2 không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ.
Kết luận giám định đối với số khung, số máy của xe mô tô nhãn hiệu Honda SH đeo biển kiểm soát 37K1-X thu giữ của Nguyễn Viết L xác định số máy: KF08E*0049981*KTGE1, số khung: *ZDCKF08A06F069253* là nguyên thuỷ. Xác minh theo số máy, số khung người đăng ký sở hữu là anh Vũ Bắc H3, sinh năm: 1964, HKTT và ở: 16 B, ngõ F, Chợ N, phường Đ, quận B, Hà Nội. Tại Cơ quan điều tra anh H3 khai mua chiếc xe trên để sử dụng từ năm 2009 đến năm 2014 đã bán xe tại khu vực phố C không nhớ đã bán cho ai. Không quen biết ai tên Nguyễn Viết L.
Xét thấy, chiếc xe máy nhãn hiệu Anger BKS 89F9-Y thu của Nguyễn Văn N2, Cơ quan điều tra đã xác minh không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng, những người đứng tên đăng ký chủ sở hữu đều có lời khai đã bán xe trên cho người không quen biết, bị cáo thừa nhận là xe mẹ để lại trước khi mất và bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với xe máy nhãn hiệu SH BKS: 37K1-X thu của Nguyễn Viết L, Cơ quan điều tra đã xác minh không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng, những người đứng tên đăng ký chủ sở hữu đều có lời khai đã bán xe trên cho người không quen biết, L không sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại L.
[6]. Về hình phạt bổ sung:
Các bị cáo không có công việc ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[7]. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng là ma túy, vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành đã bị thu giữ trong quá trình điều tra và cân điện tử.
- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước: 03 điện thoại di động đã thu giữ của các bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy ( trong đó: 01 điện thoại di động Masstel của L2; 01 điện thoại di động Nokia của N2 và 01 điện thoại di động Iphone của L);
01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Anger, BKS 89F9 – Y các bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội.
Đối với số tiền 25.000.000 đồng thu giữ tại nhà của Nguyễn Viết L, bị cáo khai là tiền con bị cáo cho bị cáo để chi tiêu cá nhân nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Trả lại bị cáo L: 03 điện thoại di động (02 điện thoại Nokia và 01 điện thoại Iphone); 01 xe máy SH BKS 37K1 - X do không liên quan đến hành vi phạm tội.
Trả lại chị Lê Thị N3 (vợ bị cáo L): 01 điện thoại di động iphone màu ghi, imei 3538961053X47 do không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo.
[8]. Về án phí và quyền kháng cáo:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; các bị cáo Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: N (mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2023.
- Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Xuân L2 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2023.
- Áp dụng điểm c, Khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn N2 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/7/2023.
3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong được dán kín, trên mép dán có chữ ký của Hoàng Xuân L2 và Nguyễn Văn N2, cán bộ Phòng P, chữ ký của giám định viên Lê Khắc N4 và dấu đỏ của Phòng Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H; 01 hộp niêm phong được dán kín, trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Viết L, cán bộ Phòng PC04 Vũ Hải Đ1, chữ ký của giám định viên Lê Khắc N4 và dấu đỏ của Phòng Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H; 01 bì niêm phong được dán kín, trên mép dán có chữ ký của Nguyễn Viết L, cán bộ Phòng PC04 Vũ Hải Đ1, chữ ký của giám định viên Lê Khắc N4 và dấu đỏ của Phòng Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H; 01 túi đeo đen.
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Masstel màu đen. Imei: 353535064448788 đã cũ (đã thu giữ của L2); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng. Imei: 354547018029050 (đã thu giữ của N4); 01 điện thoại di động Iphone màu xanh. Imei: 355365661421519 (đã thu giữ của L); 01 xe máy Anger, BKS 89F9 – Y (đã thu giữ của N4).
- Trả lại bị cáo Nguyễn Viết L: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng. Imei: 354199035441817; 01 điện thoại di động Iphone màu vàng. Imei trên lưng máy: 356983073624339; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ. Imei:
35419303631497401; 01 xe máy SH, BKS 37 K1 – X và 25.000.000 đồng theo Giấy chuyển tiền vào tài khoản số 3949.0.1052728 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội ngày 13 tháng 11 năm 2023 giữa Công an Thành phố H và Cục thi hành án 14 dân sự Thành phố Hà Nội, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
- Trả lại chị Lê Thị N3: 01 điện thoại di động Iphone màu ghi. Imei: 3538961053X47 do không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo.
Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 11 năm 2023, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H và Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội
4. Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 42/2024/HS-ST
Số hiệu: | 42/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về