Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 407/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 407/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 325/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Lê Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Đức T, sinh ngày 27 tháng 7 năm 2001, tại T, Quảng Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thành phố T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lê Đức M (chết) và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1974; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất, chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không Bị tạm giữ ngày 29/4/2021, chuyển tạm giam ngày 08/5/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Ông Nguyễn Văn H - Luật sư Công ty Luật TNHH T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam; địa chỉ: thành phố T, tỉnh Quảng Nam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 22 giờ 45 phút ngày 28/4/2021, Tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về ma túy Công an thành phố T phối hợp với Công an phường A phát hiện Nguyễn Đức T1 và Lê Đức T, đang đứng tại khu vực đường bê tông trước nhà của Nguyễn Đức T1 (Khối phố 3, A, T), trên tay T1 đang cầm 02 (hai) viên nén hình trái tim, màu cam, hai mặt có in hình mặt sư tử (cân xác định khối lượng 0,72 gam) nghi vấn là chất ma túy. T1 khai là hai viên ma túy tổng hợp của T1 và T cất giữ để bán lại cho người khác kiếm lời. Đồng thời Nguyễn Đức T1 tự giác khai ra ma túy còn cất giấu, sau đó T1 và T dẫn lực lượng Công an đến vị trí gốc cây dâu đất tại góc sân nhà, T1 lấy ra từ vị trí bên cạnh gốc cây dâu đất một hộp giấy bên trong có 07 (bảy) túi ni lông đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng (có khối lượng 5,66 gam) và một túi ni lông đựng 36 (ba mươi sáu) viên nén hình trái tim, màu cam, hai mặt có in hình mặt sư tử (có khối lượng 13,21 gam) nghi là ma túy.

Lúc 02 giờ 00 phút ngày 29/4/2021, Cơ quan Công an thành phố T khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đức T1 tại Khối phố 03, phường A, T, Quảng Nam. Qua khám xét, Cơ quan Công an phát hiện trong hộc tủ quần áo trong phòng ngủ của T1 có một túi ni lông bên trong đựng 147 (một trăm bốn mươi bảy) viên nén hình trái tim, màu cam, hai mặt có in hình mặt sư tử (có khối lượng 50,81 gam); 01 túi ni lông đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng (có khối lượng 41,81 gam), nghi là ma túy và một cân tiểu ly điện.

Quá trình điều tra, Lê Đức T và Nguyễn Đức T1 khai nhận: thời gian khoảng đầu tháng 4/2021, khi làm nhân viên tại cơ sở kinh doanh karaoke Q ở thành phố T thì có một người thanh niên xưng tên là T2 (ở D) đến làm quen và cho T số điện thoại 0935482009 bảo khi nào cần mua ma túy thì gọi cho T2. Sau đó, T rủ T1 chung tiền mỗi người 3.000.000 đồng để mua ma túy về sử dụng. T dùng số điện thoại 0795537103 gọi cho T2 qua số 0935482009 hỏi mua 20 viên thuốc lắc (MDMA) và 2,5gam Ketamine giá 6.000.000 đồng thì T2 đồng ý và hẹn T đến khu vực đường N thuộc phường A, thành phố T để mua bán ma túy. Sau đó T1 dùng xe mô tô biển số 92B1-473.37 chở T đến điểm hẹn để lấy ma túy. Sau khi mua được số ma túy này, T đưa cho T1 cất giữ và đã cùng T1 bán cho Lê Nguyên P (sinh năm 1996, trú tại: Khối phố 7, A, T) tất cả 4 lần: Lần thứ nhất, vào giữa tháng 4/2021, P gọi điện thoại cho T hỏi mua ma túy để sử dụng, thì T nói T1 chở T đến khu vực đường T, TP. T (gần nhà P), T bán cho P 02 viên thuốc lắc (MDMA) và 01 gói Ketamine (01 chỉ), số tiền 1.700.000 đồng, số tiền này T cất giữ và chi tiêu vào ăn uống chung của T và T1. Lần thứ hai: Vào tối ngày 20/4/2021, P nhắn tin cho T hỏi mua ma túy để sử dụng, thì T nói T1 chở T đến khu vực đường T, TP. T (gần nhà P), T trực tiếp bán cho P 02 viên thuốc lắc (MDMA) và 01 gói Ketamine (1/2 chỉ), số tiền 1.200.000 đồng, số tiền này T cất giữ và chi tiêu vào ăn uống chung của T và T1. Lần thứ ba: Vào tối ngày 22/4/2021, P nhắn tin cho T hỏi mua ma túy để sử dụng, thì T điện thoại cho T1 mang ma túy đến khu vực đường T, TP. T (gần nhà P), bán cho P 02 viên thuốc lắc (MDMA), số tiền 700.000 đồng, T1 mang tiền này về đưa cho T cất giữ và chi tiêu vào ăn uống chung của T và T1. Lần thứ tư: Vào tối ngày 26/4/2021, T điện thoại cho T1 mang ma túy đến khu vực đường T, TP. T (gần nhà P), bán cho P 01 viên thuốc lắc (MDMA) số tiền 350.000 đồng, T1 và T chi tiêu vào ăn uống chung. Số ma túy còn lại, Lê Đức T và Nguyễn Đức T1 đem đến các quán Karaoke nghe nhạc và sử dụng hết.

Đến ngày 27/4/2021, T tiếp tục gọi điện thoại cho T2 hỏi mua 50 gam ma túy loại Ketamine và 200 viên ma túy MDMA, T2 đồng ý và ra giá là 82.000.000 đồng, T thỏa thuận sẽ trả trước 40.000.000 đồng và nợ lại T2 42.000.000 đồng. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 28/4/2021, T1 điều khiển xe mô tô chở T đến khu vực đường N thuộc phường A, T. Tại đây, T2 giao cho T 01 hộp giấy bên trong có một túi ni lông chứa 197 viên ma túy MDMA và 01 túi ni lông chứa 50 gam ma túy loại Ketamine; T giao cho T2 40.000.000 đồng. Sau đó, T giao cho T1 mang ma túy về nhà cất giữ, T1 lấy 50 viên ma túy MDMA và 01 ít ma túy Ketamine chia ra thành 12 gói nhỏ cho vào hộp giấy đem giấu ở bên cạnh gốc cây dâu đất trước sân nhà T1; 147 viên MDMA và ma túy Ketamine còn lại T1 cất giấu trong hộc tủ ở phòng ngủ của T1.

Khoảng 19h30 ngày 28/4/2021, T bảo T1 đưa cho T 12 viên MDMA và 05 gói Ketamine để T bán cho Hùng L (chưa rõ lai lịch) 10 viên MDMA và 05 gói Ketamine với giá 9.500.000 đồng (nhưng Hùng L chưa trả tiền); bán cho Nguyễn Hữu T 02 viên thuốc lắc (MDMA) với giá 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng).

Khoảng 22h15 ngày 28/4/2021, T1 và T về nhà T1 lấy 02 viên thuốc lắc (MDMA) tại vị trí gốc cây dâu ở sân nhà T1 để đem đi bán nhưng khi T và T1 vừa mang ma túy ra khỏi cổng nhà T1 (Khối phố 3, A, T) thì bị lực lượng Công an thành phố T phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 48/PC09, ngày 06/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam xác định:

+ Các viên nén (185 viên) màu cam gửi giám định (gồm các mẫu ký hiệu A1, A2 và A10 là ma túy, loại MDMA; mẫu ký hiệu A1 có khối lượng là 0,708gam; mẫu ký hiệu A2 có khối lượng là 12,494 gam; mẫu ký hiệu A10 có khối lượng là 50,868 gam. (Tổng cộng 64,07 gam) + Không tìm thấy các chất ma túy thường gặp (Heroine, Methamphetamine, Ketamine, Codeine, 2C-B, MDMA, TFMPP, Methylphenyldate) trong các mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng gửi giám định (gồm các mẫu ký hiệu từ A3 đến A9 và mẫu ký hiệu A11); mẫu ký hiệu A3 có khối lượng là 1,769 gam; mẫu ký hiệu A4 có khối lượng là 1,806 gam; mẫu ký hiệu A5 có khối lượng là 0,364 gam; mẫu ký hiệu A6 có khối lượng là 0,443 gam; mẫu ký hiệu A7 có khối lượng là 0,492 gam; mẫu ký hiệu A8 có khối lượng là 0,461 gam; mẫu ký hiệu A9 có khối lượng là 0,388 gam; mẫu ký hiệu A11 có khối lượng là 41,856 gam.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 32/2022/HSST ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

- Áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Lê Đức T và Nguyễn Đức T1.

- Tuyên bố: Các bị cáo Lê Đức T và Nguyễn Đức T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt:

+ Bị cáo Lê Đức T: 13 (Mười ba) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 29/4/2021).

+ Bị cáo Nguyễn Đức T1: 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 29/4/2021).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng.

[3] Kháng cáo:

Ngày 24-6-2022 Lê Đức T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên đơn kháng cáo, trình bày lý do kháng cáo là hình phạt của bị cáo quá chênh lệch so với bị cáo T1, trong khi hai bị cáo cùng chung nhau, giống nhau; chỉ khác bị cáo là người khởi xướng, không phải cầm đầu.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung: do không có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận các kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của Người bào chữa: Bị cáo T chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Khi bị bắt, T cùng với T1 dẫn lực lượng Công an đến vị trí cất giấu thu giữ ma túy. Sau khi phạm tội, bị cáo T đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; bị cáo khai ra những lần bán ma túy trước đó; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mất sớm; đồng thời gia đình có người có công cách mạng, là liệt sĩ. Số lượng ma túy hai bị cáo chịu chung, hai bị cáo chung mua số tiền bằng nhau, tình tiết giảm nhẹ như nhau, chỉ khác nhau là bị cáo T là người khởi xướng, nhưng mức hình phạt giữ hai bị cáo trong vụ án là quá chênh lệch. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tác động gia đình nộp số tiền mà bản án sơ thẩm đã truy thu, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội Khoảng đầu tháng 4/2021, Lê Đức T rủ Nguyễn Đức T1 chung tiền mua chất ma túy về sử dụng và bán lại cho các con nghiện khác để kiếm lời. T và T1 đã hai lần chung tiền mua ma túy của người tên T2, sau đó, T bảo T1 mang về nhà cất giấu để bán cho các con nghiện. Đến ngày 28/4/2021 khi bắt quả tang thì T và T1 đang cầm trên tay 02 viên thuốc lắc. Khi khám xét nơi ở của bị cáo T1 thì phát hiện thêm 183 viên thuốc lắc (36+147). Theo kết quả giám định 185 viên thuốc lắc là ma túy loại MDMA khối lượng 64,07 gam.

Ngoài ra, các bị cáo tự khai nhận từ giữa tháng 4/2021 đến ngày bị bắt quả tang, các bị cáo đã bán ma túy cho các con nghiện như sau: Bán cho Lê Nguyên P 04 lần: lần 01 vào khoảng giữa tháng 4/2021, các bị cáo bán 02 viên thuốc lắc (MDMA) và 01 gói ketamine cho P số tiền 1.700.000 đồng; lần 2: tối ngày 20/4/2021, bán cho P 02 viên thuốc lắc (MDMA) và 01 gói ketamine số tiền 1.200.000 đồng; lần 3: tối ngày 22/4/2021, các bị cáo bán cho P 02 viên thuốc lắc (MDMA) với số tiền 700.000 đồng; lần 4: bán cho P 01 viên thuốc lắc (MDMA) với số tiền 350.000 đồng; tổng số tiền các bị cáo thu lợi bất chính từ các lần bán ma túy cho P là 3.950.000 đồng. Ngày 28/4/2021, các bị cáo bán 10 viên thuốc lắc (MDMA) và 05 gói Ketamine cho người tên Hùng L (chưa rõ lai lịch) với số tiền 9.500.000 đồng nhưng L còn nợ chưa trả tiền; bán cho Nguyễn Hữu T 02 viên thuốc lắc (MDMA) với giá 800.000 đồng.

Như vậy, khi bắt quả tang và khám xét tại nơi ở của T1, cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ được: 185 viên ma túy loại MDMA (thuốc lắc), khối lượng 64,07 gam; còn 08 gói ni lông chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có khối lượng 47,579 gam, nhưng qua giám định thì không tìm thấy chất ma túy thường gặp. Vì vậy, bản án sơ thẩm xác định bị cáo T và T1 chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng 64,07 gam chất ma túy loại MDMA là có căn cứ. Hành vi của bị cáo Lê Đức T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Đức T: Ma túy là loại độc dược gây nghiện có tác hại lâu dài đối với sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội khác.

Bị cáo Lê Đức T là người giữ vai trò khởi xướng, rủ rê bị cáo Nguyễn Đức T1 góp tiền mua ma túy để bán kiếm lời và liên hệ người tên T2 để mua ma túy, do đó hình phạt của bị cáo cao hơn bị cáo T1 là hợp lý.

Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Lê Đức T được bản án sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; bị cáo tự giác khai ra nơi cất giấu số lượng ma túy tổng hợp và dẫn lực lượng Công an đến vị trí cất giấu thu giữ ma túy. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo T tự khai ra những lần bán ma túy trước đó cho các đối tượng nghiện (Lê Nguyên P, Nguyễn Hữu T, Hùng L); nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tác động gia đình nộp số tiền truy thu là 2.375.000 đồng, được chính quyền địa phương xác nhận về hoàn cảnh khó khăn, Cha mất sớm, gia đình có công; đồng thời xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo sớm có cơ hội hòa nhập gia đình và cộng đồng xã hội.

[4] Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét. Đối với số tiền 2.575.000 đồng bị cáo T nộp theo Biên lai thu số 0000621 ngày 23-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam là số tiền truy thu và án phí sơ thẩm, được khấu trừ khi thi hành theo quyết định của bản án sơ thẩm, về án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Đức T, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HSST ngày 22-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về hình phạt đối với bị cáo Lê Đức T.

2. Áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T 11 (mười một) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù được tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 29-4-2021).

3. Các quyết định khác còn lại không có kháng cáo kháng nghị, được thi hành án theo quyết định của bản án sơ thẩm. Số tiền 2.575.000 đồng bị cáo T nộp theo Biên lai thu số 0000621 ngày 23-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam được khấu trừ khi thi hành theo quyết định của bản án sơ thẩm.

4. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo không phải chịu.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 407/2022/HS-PT

Số hiệu:407/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về