Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 11/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Đỗ Thị H (tên gọi khác: M), sinh ngày 01/01/1981; Nơi sinh: Hà Tiên, G; Nơi ĐKHKTT: Khu phố C, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G; Chỗ ở: Khu phố D, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G; CCCD: 091181004099; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Ch và bà Võ Thị S; có chồng tên Phạm Th G và 01 đứa con sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Văn L, sinh năm 1993. Nơi cư trú: Tổ 6, khu phố A, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G. Vắng mặt

2. Trần Văn Th, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Tổ 6, khu phố A, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G. Vắng mặt

3. Lâm Bảo D, sinh năm 2005. Nơi cư trú: Khu phố C, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G. Vắng mặt

4. Bà Trần Thị Kh, sinh năm 1958. Nơi cư trú: Số 4, đường Y, Khu phố A, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G. Có mặt

. Bà Võ Thị S, sinh năm 1958. Nơi cư trú: Số 30, đường N, Khu phố C, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G. Vắng mặt

Người làm chứng:

1. Trịnh Khánh D. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt 2. Ông Lê Tổng H. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ, ngày 14/6/2023, Nguyễn Văn L (tên gọi khác M) điện thoại cho Đỗ Thị H hỏi mua 150.000 đồng ma túy, H đồng ý bán và hẹn L đến khu vực gần Trường trung học cơ sở Tô Châu, thuộc Khu phố D, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh G để nhận ma túy. H kêu L mua giùm 01 chiếc thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng, sẽ được trừ vào tiền mua ma túy. Sau khi nói chuyện điện thoại với L xong H lấy ma túy để vào túi nylon màu trắng, dùng bậc lửa hàn miệng túi nylon lại, lấy thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng đã sử dụng xé ra làm hai rồi để ma túy vào giữa, rồi lấy băng keo màu vàng quấn lại, bỏ vào túi quần bên trái. H điều khiển xe máy hiệu Honda, số loại Wave, màu trắng đen, biển kiểm soát 68M2 – xxxx của bà Võ Thị S đến khu vực gần Trường trung học cơ sở Tô Châu để giao ma túy cho L. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Trần Văn Th điều khiển xe máy màu xanh, không biển số chở Nguyễn Văn L đến chỗ hẹn để nhận ma túy, trên đường đi Th và L ghé tiệm tạp hóa mua 01 chiếc thẻ cào điện thoại rồi tiếp tục điều khiển xe máy đến chỗ hẹn gặp H. Khi H chuẩn bị giao ma túy cho L thì Tổ tuần tra Công an phường Tô Châu đến, H ném chiếc thẻ cào điện thoại bên trong có giấu ma túy xuống đất thì bị Tổ tuần tra phát hiện mời H, L và Th về trụ sở Công an phường Tô Châu làm việc. Quá trình làm việc H khai nhận bên trong chiếc thẻ cào điện thoại H ném xuống đất có ma túy và thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên Công an phường Tô Châu phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Thị H.

Tại Kết luận giám định số 600/KL-KTHS ngày 20/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G, kết luận:

Các hạt tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01 bịch nylon hàn kín được miêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0792 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì kí hiệu vụ số 600/2023. Bên trong phong bì gồm 01 bịch nylon đựng mẫu và các hạt tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng là 0,0591 gam (đựng trong 01 (một) bịch nylon).

Vật chứng trong vụ án:

1. Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong có chữ ký giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến niêm phong Đồng Tiểu Nghi và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G gồm có: Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì kí hiệu vụ số 600/2023. Bên trong phong bì gồm 01 bịch nylon đựng mẫu và các hạt tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng là 0,0591 gam (đựng trong 01 (một) bịch nylon).

2. Một thẻ cào điện thoại, số seri: 1000977260xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (đã qua sử dụng).

3. Một thẻ cào điện thoại, số seri: 1000975990xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (chưa sử dụng).

4. Một điện thoại di động hiệu Realme 7i, kiểu máy: RMX2103, màu xanh, số Imei 1: 868066043131012; Imei2: 868066043131004; số seri: 58684476, màn hình bể nứt (đã qua sử dụng).

5. Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh dương, Mode: 1208;

CODE: 0202211A; số Imei: 358253/04/797130/7 (đã qua sử dụng).

6. Một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng, số seri XB 11920892.

7. Một xe máy không biển kiểm soát, số máy C50E-6202742, số khuung: không xác định, màu xanh (đã qua sử dụng).

8. Một xe máy hiệu Honda, số loại Wave, màu trắng đen, biển kiểm soát 68M2-xxxx, số máy: HC09E-5717742, số khung: RLHHC0927Y617876 (đã qua sử dụng).

9. Một điện thoại di động màu xanh, hiệu Oppo, màn hình bị nứt, khong kiểm tra tình trạng bên trong (đã qua sử dụng).

Các vật chứng từ mục số 1 đến mục số 5 hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh G.

Vật chứng số 06 đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước thành phố Hà Tiên.

Các vật chứng từ mục số 7 đến mục số 9 đã trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp là bà Trần Thị Kh, bà Võ Thị S và ông Lâm Bảo D.

Tại Bản cáo trạng số 38/CT-VKSHT, ngày 30/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh G đã truy tố bị cáo Đỗ Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Thị H mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật. Buộc bị cáo nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa và đề nghị của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố Hà Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng pháp luật.

[2] Sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Người làm chứng ông Trịnh Khánh D có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn L, Trần Văn Th, Lâm Bảo D, Võ Thị S đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhưng vắng mặt không có lý do không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp lời khai của những người tham gia tố tụng và các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo H thừa nhận được một người tên M (Nguyễn Văn L) gọi điện thoại hỏi mua 150.000 đồng ma túy và H đồng ý bán ma túy cho L, H nhờ L mua giùm một chiếc thẻ cào điện thoại viettel mệnh giá 50.000 đồng, hai bên thỏa thuận địa điểm giao dịch tại khu vực gần Trường trung học cơ sở Tô Châu. Để tránh bị phát hiện H còn cất giấu ma tuý vào bên trong thẻ cào điện thoại và điều khiển xe máy đến địa điểm giao dịch đã hẹn trước đó để giao ma túy cho L. Khi hai bên gặp nhau để giao dịch ma túy thì Tổ tuần tra Công an phường Tô Châu đến, H ném thẻ cào điện thoại bên trong có giấu ma túy xuống đất. Qua kiểm tra và làm việc tại cơ quan Công an, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố về hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bản thân bị cáo nhận thức được rằng việc mua bán trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, tệ nạn ma túy là mối hiểm họa cho xã hội, gây tàn phá sức khỏe con người, ảnh hưởng đến an toàn xã hội, an ninh quốc gia. Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.

[6] Vật chứng trong vụ án:

Tịch thu tiêu hủy vật chứng là mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong có chữ ký giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến niêm phong Đồng Tiểu Nghi và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G gồm có: mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì kí hiệu vụ số 600/2023, bên trong phong bì gồm 01 bịch nylon đựng mẫu và các hạt tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng là 0,0591 gam (đựng trong 01 (một) bịch nylon); Một thẻ cào, số seri: 1000977260xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (đã qua sử dụng).

Tịch thu sung quỹ nhà nước vật chứng là một điện thoại di động hiệu Realme 7i, kiểu máy: RMX2103, màu xanh, số Imei 1: 868066043131012; Imei2: 868066043131004; số seri: 58684476, màn hình bể nứt (đã qua sử dụng); Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh dương, Mode: 1208; CODE: 0202211A; số Imei: 358253/04/797130/7 (đã qua sử dụng) là phương tiện, công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội; Một thẻ cào điện thoại, số seri: 1000975990xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (chưa sử dụng) và một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng, số seri XB 11920892.

Ghi nhận Quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên về việc trả lại các vật chứng là Một xe máy, không biển kiểm soát, số máy C50E-6202742, số khuung: không xác định, màu xanh (đã qua sử dụng); Một xe máy hiệu Honda, số loại Wave, màu trắng đen, biển kiểm soát 68M2-xxxx, số máy: HC09E-5717742, số khung: RLHHC0927Y617876 (đã qua sử dụng); Một điện thoại di động màu xanh, hiệu Oppo, màn hình bị nứt, không kiểm tra tình trạng bên trong (đã qua sử dụng) cho các chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là bà Trần Thị Kh, bà Võ Thị S và ông Lâm Bảo D.

[7] Quá trình điều tra bị cáo Đỗ Thị H khai nhận mua ma túy của Nguyễn Th Hiếu nhưng Hiếu không thừa nhận và không có chứng cứ chứng minh Hiếu có bán ma túy cho H nên không có cơ sở để xử lý.

Qua kiểm tra điện thoại của H có một số thuê bao điện thoại có liên hệ với H có nghi ngờ liên quan đến việc mua bán ma túy là Đinh Văn Q, Lê Tổng H, Lê Thị Hoài A nhưng không có căn cứ nên không có cơ sở xử lý.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Đỗ Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 48, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

túy".

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị H phạm tội "Mua bán trái phép chất ma Xử phạt bị cáo Đỗ Thị H 02 (hai0 năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2023.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- Mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) phong bì kí hiệu vụ số 600/2023, có chữ ký giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến niêm phong Đồng Tiểu Nghi và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh G, bên trong phong bì có 01 (một) bịch nylon đựng mẫu và các hạt tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng là 0,0591 gam; Một thẻ cào, số seri: 1000977260xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (đã qua sử dụng). Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên.

Tịch thu sung quỹ nhà nước các vật chứng sau:

- Một điện thoại di động hiệu Realme 7i, kiểu máy: RMX2103, màu xanh, số Imei 1: 868066043131012; Imei2: 868066043131004; số seri:

58684476, màn hình bể nứt (đã qua sử dụng); Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu xanh dương, Mode: 1208; CODE: 0202211A; số Imei: 358253/04/797130/7 (đã qua sử dụng); Một thẻ cào điện thoại, số seri: 1000975990xxxx, mệnh giá 50.000 đồng (chưa sử dụng). Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên.

- Một tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng), số seri XB 11920892. Đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước thành phố Hà Tiên.

Ghi nhận Quyết định xử lý vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên về việc trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là các vật chứng sau:

- Một xe mô tô không biển kiểm soát, số máy C50E-6202742, số khung không xác định, màu xanh (đã qua sử dụng) trả lại cho bà Trần Thị Kh; Một xe mô tô hiệu Honda, số loại Wave, màu trắng đen, biển kiểm soát 68M2- xxxx, số máy: HC09E-5717742, số khung: RLHHC0927Y617876 (đã qua sử dụng) trả lại cho bà Võ Thị S; Một điện thoại di động màu xanh, hiệu Oppo, màn hình bị nứt, khong kiểm tra tình trạng bên trong (đã qua sử dụng) trả lại cho ông Lâm Bảo D.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Đỗ Thị H nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về