TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2022/TLST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Bùi Văn H, sinh năm 1999 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: V Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Công giáo; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/12; con ông Bùi Văn Th sinh năm 1967 và bà Bùi Thị M sinh năm 1967; Vợ, con chưa có. Tiền án: Bản án số 70 ngày 13/11/2018 Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 03 năm tù về tội Hiếp dâm. Bị cáo chấp hành xong ra trại ngày 04/02/2021.Tiền sự: không Lịch sử bản thân: Bản án số 67 ngày 30/9/2016 Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong ngày 29/8/2017.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2021 đến ngày 31/12/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình.(có mặt)
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Bùi Văn H, sinh năm 1998. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (vắng mặt)
-Chị Ngô Thị H, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn Th, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.(vắng mặt)
- Anh Phạm Văn V, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn Th, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.(vắng mặt)
- Ông Bùi Văn Th, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Bình.(có mặt)
- Anh Đinh Văn Q, sinh năm 1976. Địa chỉ: Bản C, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình.(vắng mặt)
* Người làm chứng:
- Anh Đinh Văn B, sinh năm 1990 (vắng mặt)
* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Hữu S, sinh năm 1976.(vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 22/12/2021 Phạm Văn Vsinh năm 1972 ở xã V, huyện N có điện cho Bùi Văn H về việc hỏi mua ma túy đá của H, do H không có ma túy để bán choanh Vnên đã tìm cách mua ma túy chỗ khác để về bán choanh Vkiếm lời. Khoảng 10 giờ ngày 22/12/2021, H đi nhờ xe của người đi đường không quen biết từ nhà lên khu vực cầu thủng thuộc địa phận xã Yên Sơn, thành phố Tam Điệp để tìm mua ma túy, đến nơi H xuống xe đi bộ một đoạn thì nhìn thấy 01 người nam giới (Hưng không biết tên, tuổi, địa chỉ) trông giống người nghiện đang đứng ở đó nên H đi lại gần người nam giới và hỏi “anh còn hàng không, bán cho em ba trăm đá” – ý H hỏi mua ma túy của người nam giới, người nam giới hiểu ý H hỏi mua ma túy đá nên trả lời “Có, đưa tiền đây”, H lấy tiền 300.000 đồng đưa cho người nam giới, người này cầm tiền rồi đưa cho H 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong có chất tinh thể mầu trắng, H mở ra kiểm tra xác định là ma túy đá sau đó gói lại bỏ vào túi quần rồi đi nhờ xe về nhà. Người bán ma túy cũng đi luôn. Khoảng 12 giờ cùng ngày H đi bộ sang nhà Anh Bùi Văn H sinh năm 1998 ở xã Q, huyện N mượn xe Hvà rủ Hđi cùng sang nhà T nhưng không nói cho Hbiết mang ma túy đi bán cho V, H điều khiển xe chở Hđến nhà T ở xã V, huyện N để bán ma túy cho anh V. Đến nơi anh T không có ở nhà chỉ thấy V cùng Anh Đinh Văn B sinh năm 1990, trú tại thôn Đ, xã C đang ở trong gian bếp nhà anh T, H và Hđi vào gian bếp nhà anh T gặp V thì V nói” anh không có tiền không mua ma túy nữa”. H đồng ý và không bán cho V nữa. Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày Công an xã V nhận được tin báo tố giác về việc nhà anh T có nhiều đối tượng nghiện ma túy tụ tập để sử dụng ma túy. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày Công an xã V đến nhà T phát hiện H, V, Bình, Hđang ở gian bếp nhà T. Tổ công tác yêu cầu H đứng lên kiểm tra, biết không thể che giấu hàng vi cất giữ trái phép chất ma túy trong người nên H đã tự giác móc ở túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận 01 gói ma túy loại Methamphetamine vừa mua về mục đích bán cho V. Tổ công tác đã thu giữ 01 gói ma túy được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của H, 01 điện thoại nhãn hiệu Intel màu đen của V, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 35N7- 8959 của Huân.
Tiến hành khám xét nơi ở của Bùi Văn H, phương tiện do Bùi Văn H sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Cân xác định khối lượng chất dạng tinh thể màu trắng chứa trong gói nhỏ gói bằng giấy bạc mầu vàng thu giữ của Bùi Văn H có khối lượng 0,26gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 60/KLGĐ-PC09-MT ngày 28/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:“Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,2522 (Không phẩy hai nghìn năm trăm hai mươi hai ) gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục II, có số thứ tự 323;
Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.
Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0,1747(Không phẩy một nghìn bẩy trăm bốn mươi bẩy) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 60/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 38/CT - VKSNQ ngày 07/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại Khoản 1, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý“. Đề nghị áp dụng: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đề nghị: xử phạt bị cáo từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 22/12/2021.
Đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng sung Ngân sách nhà nước.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 0,1747(Không phẩy một nghìn bẩy trăm bốn bẩy) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 60/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.
Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 22/12/2021 tại nhà anh Tạ Quốc T ở thôn Hiền Lương, xã V, huyện N. Bùi Văn H có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,2522 gam nhằm mục đích bán cho Phạm Văn Vthì bị bắt quả tang.
Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự
Điều 251: Tội mua bán trái phép chất ma túy.
1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
..................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, bởi lẽ: Ma túy là một trong những đại họa mà toàn nhân loại phải đối mặt và là vấn đề đang còn nhức nhối, ám ảnh của thế giới nói chung và V Nam nói riêng. Nhận thức sâu sắc về tác hại của ma túy nên Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống ma túy cũng như quyết tâm loại trừ các tệ nạn về ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các tội phạm về ma túy vẫn chưa giảm mà lại có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội ngoài công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng thì các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương như: Công an, Viện kiểm sát và Tòa án đã tăng cường, phối hợp chặt chẽ công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy, kiên quyết triệt xóa các tụ điểm phức tạp, không để gây bức xúc trong nhân dân. Vận động nhân dân phát hiện tố giác tội phạm về ma túy nhằm góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Từ đó nêu cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn dân cư để từng bước đẩy lùi và loại trừ tội phạm nguy hiểm này. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật bằng bản án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục chính bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đang có tiền án lại phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
Từ những phân tích trên, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội 1 thời gian dài mới có tác dụng giáo dục cải tại bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong vụ án này, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Methamphetamine cho Bùi Văn H nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với Bùi Văn V là đối tượng nghiện ma túy, hỏi mua ma túy của H nhưng do không có tiền nên H không bán. Do vậy không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với V.
Đối với Bùi Văn Hđã mượn xe máy của Anh Đinh Văn Q sau đó cho H mượn xe bảo Hđi cùng đến nhà T, H không nói đi bán ma túy cho Hbiết. Đến nơi gặp T và Bình, T và Bình không biết H đến bán ma túy cho V nên không có đủ cơ sở để xử lý đối với Huân, T và Bình.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua bán nhằm mục đích kiếm lời vì vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp khác:
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 35N7- 8959 quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản hợp pháp của Anh Đinh Văn Q sinh năm 1976, trú tại Bản C, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình cho Hmượn, anh Quyền không biết Hđi cùng H đi bán ma túy, Hcũng không biết H rủ đi bán ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại chiếc xe cho anh Quyền là đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ lắp sim 0987669352. Quá trình điều tra xác định là của Ông Bùi Văn Th là bố đẻ H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại chiếc điện thoại cho ông Tha là đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu đen của lắp sim 0382835012. Quá trình điều tra xác định là của`Chị Ngô Thị H sinh năm 1993, là vợ của Anh Phạm Văn V trú tại Thôn Th, xã V, huyện N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại chiếc điện thoại cho chị Hương là đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với vỏ gói, vỏ phong bì niêm phong ban đầu được chuyển cùng hồ sơ vụ án Đối với 0,1747(Không phẩy một nghìn bẩy trăm bốn bẩy) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 60/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật. Đây là vật nhà nước cấm sử dụng, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
* Áp dụng: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo 36(Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22/12/2021.
Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước
2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
* Tịch thu tiêu hủy: 0,1747(Không phẩy một nghìn bẩy trăm bốn bẩy) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Methamphetamine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 60/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.
(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N)
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST
Số hiệu: | 38/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về