Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 363/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 363/2020/HS-PT NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1093/2019/TLPT-HS ngày 31/12/2019 đối với bị cáo Lê Hữu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.

* Bị cáo có kháng cáo:

Lê Hữu T, sinh năm 1985; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 6, M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; văn hóa: 05/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Lê Hữu T1 và bà Lê Thị X; có vợ là Trương Thị V, sinh năm 1985; có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 06/5/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T: Luật sư Đỗ Thị Minh T2 –Công ty Luật M, Đoàn Luật sư tỉnh Nam Định; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Đào Văn H không kháng cáo, không bị kháng nghị; Tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 21h00’ ngày 06/5/2019, Tổ công tác Đồn biên phòng Q thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng nhà nghỉ Hải Dương, thuộc địa bàn thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định phát hiện một xe taxi 36A-277.84 chở hai nam thanh niên đang dừng trước cổng nhà nghỉ Hải Dương có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hai thanh niên trên taxi, nam thanh niên ngồi ghế phụ khai tên là Lê Hữu T, sinh năm 1985, trú tại Đội 6, M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và người lái xe khai tên là Lê Văn C, sinh năm 1990, trú tại xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình kiểm tra, T đã tự nguyện giao nộp cho Tổ công tác 01 túi xách màu nâu để trong cốp xe ô tô, bên trong túi xách có 10 túi nilon màu đen, bên trong mỗi túi nilon màu đen có chứa một khối hình chữ nhật, kích thước mỗi khối khoảng (15x10x2,5)cm, bên ngoài mỗi khối hình hộp chữ nhật được bọc bằng nhiều lớp nilon các màu trắng, xanh, vàng và lớp giấy nến màu vàng, bên trong cùng chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai nhận đó là 10 bánh Heroine của T cùng với Đào Văn H, sinh năm 1981, trú tại xóm 3, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An mang từ Cộng hòa dân chủ nhân dân (Viết tắt CHDCND) Lào về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định để bán cho khách. T khai người lái xe taxi chở T là anh Lê Văn C không biết việc T mang ma túy đi bán. Sau đó Tổ công tác đã tiến hành niêm phong tại chỗ số ma túy vừa thu giữ của Lê Hữu T theo đúng quy định của pháp luật và đưa Lê Hữu T cùng toàn bộ vật chứng thu giữ, mời người làm chứng về trụ sở để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Hữu T và lập biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng là 10 khối hình hộp chữ nhật chứa chất bột dạng cục màu trắng, ký hiệu là M (được đánh số thứ tự từ H1 đến H10). Ngoài ra, còn tạm giữ của Lê Hữu T: 01 túi xách màu nâu đã cũ, 01 điện thoại di động nhãn nhiệu VIVO màu xanh đen đã cũ, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Hữu T và số tiền 5.300.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Hữu T, Tổ công tác của Đồn biên phòng Q, huyện G, tỉnh Nam Định thu giữ 01 hộ chiếu số B7256707 mang tên Lê Hữu T.

Tại trụ sở Đồn biên phòng Q, huyện G, tỉnh Nam Định, Lê Hữu T khai nguồn gốc 10 bánh Heroin bị thu giữ là của T và Đào Văn H, sinh năm 1981, trú tại xóm 3, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An mua của một người đàn ông tên là N ở thành phố Viêng Chăn, CHDCND Lào với giá là 8.000 USD/01 bánh Heroin để mang về thị trấn Q, huyện Giao T, tỉnh Nam Định bán cho một thanh niên tên là C với giá là 12.000 USD/01 bánh Heroin. Theo thoả thuận giữa T và H thì ngày 05/5/2019 T về Việt Nam trước và sáng ngày 06/5/2019 T đã lên cửa khẩu Na Mèo thuộc huyện T, tỉnh Thanh Hóa nhận 10 bánh Heroin từ người một người đàn ông rồi mang về khách sạn Hải Dương, thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định gặp H để cùng đi bán cho C (vì ngày 06/5/2019, H từ CHDCND Lào về thẳng thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định đợi T).

Căn cứ lời khai của Lê Hữu T và các tài liệu điều tra, Đồn biên phòng Q đã tiến hành kiểm tra nhà nghỉ Hải Dương xác định tại phòng 206 có một thanh niên đang thuê phòng là Đào Văn H, sinh năm 1981, trú tại xóm 3, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Khoảng 23h30’ ngày 06/5/2019, tổ công tác của Đồn biên phòng thị trấn Q đã thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đào Văn H về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình giữ người đã thu giữ của Đào Văn H: 01 điện thoại di động SAMSUNG màu vàng trắng đã cũ, 01 chứng minh nhân dân và 01 hộ chiếu số C5788129 mang tên Đào Văn H;

số tiền 41.000.000đồng (bốn mươi mốt triệu đồng) và 3.500 USD (ba nghìn năm trăm đô la Mỹ). Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Văn H không thu giữ gì.

Tại Bản kết luận giám định số 444/GĐKTHS ngày 10/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 10 khối hình hộp chữ nhật đánh thứ tự từ H1 đến H10 được niêm phong (ký hiệu M) gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy: Heroin. Tổng khối lượng mẫu: 3.500,160 gam (ba nghìn năm trăm phẩy một trăm sáu mươi gam).

Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định đã kết luận hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

Năm 2000, Đào Văn H sang tỉnh Hủa Phăn, CHDCND Lào làm xây dựng tự do. Khoảng năm 2013, T cũng sang CHDCND Lào làm xây dựng tự do cùng với H. Khoảng đầu năm 2019, H và T quen một người Lào tên là N sống ở thành phố Viêng Chăn, CHDCND Lào. N bảo với H và T nếu biết ai muốn mua ma túy thì liên hệ với N sẽ có ma túy bán. Trong thời gian làm việc, lao động tại CHDCND Lào, T quen biết một người đàn ông tên C ở thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định (nhưng T không biết họ, tên đệm, năm sinh của C). Khoảng cuối tháng 4/2019, C nói với T có nhu cầu mua Heroin. T nói chuyện với H về việc C có nhu cầu mua Heroin và rủ H về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định gặp C cùng bàn bạc và thống nhất việc mua bán Heroin. H đồng ý. Ngày 26/4/2019, H và T về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định lưu trú tại khách sạn Hải Dương để gặp C, nhưng đến tối ngày 29/4/2019 cả hai mới liên hệ được với C và cùng nhau đi đến nhà của C ở thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định để bàn bạc việc mua bán Heroin.

Theo lời khai của bị cáo Lê Hữu T thì: Tại nhà C, các bị cáo T, H và C đã thoả thuận mua bán 10 bánh Heroin và C đồng ý giá mua là 12.000 USD/01 bánh (mười hai ngàn đô la Mỹ một bánh Heroin). Tuy nhiên bị cáo H khai: Tại nhà C, C bảo T và H cứ sang Lào hỏi xem giá cả và chất lượng Heroin như thế nào thì báo lại cho C rồi sẽ thống nhất việc mua bán sau chứ chưa thống nhất giá ngay.

Sau khi thoả thuận nội dung mua bán Heroin với C xong, T và H chia tay đi về nhà và hẹn ngày 02/5/2019 sẽ gặp nhau tại cửa khẩu C, tỉnh Hà Tĩnh để cùng sang CHDCND Lào gặp N xem Heroin và giao dịch mua bán ma túy.

Đúng hẹn, ngày 02/5/2019, T và H gặp nhau tại cửa khẩu C, tỉnh Hà Tĩnh làm thủ tục xuất cảnh sang CHDCND Lào và cùng nhau đến thành phố Viêng Chăn gặp N. Trưa ngày 03/5/2019, N đưa H và T đến một ngôi nhà ở thành phố Viêng Chăn để xem ma túy. N đưa ra 01 bánh Heroin và dùng mũi dao nhọn rạch ra một vết nhỏ trên bánh Heroin. T là người trực tiếp xem và kiểm tra bánh Heroin, đồng thời dùng điện thoại chụp hình ảnh bánh Heroin.

Theo bị cáo H khai thì N báo giá là 13.000USD/01 bánh Heroin, T cho H số điện thoại của C rồi H nhắn tin để báo giá cho C. C bảo đắt nên H báo lại cho N, N báo lại giá 12.000USD/01 bánh Heroin. H nhắn tin cho C thì C đồng ý mua 10 bánh Heroin với giá 12.000USD/01 bánh, nhưng yêu cầu phải mang về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định để giao cho C và nhận tiền. Tuy nhiên bị cáo T khai: Tại thành phố Viêng Chăn, CHDCND Lào, T và H gặp một người tên là N thoả thuận mua 10 bánh Heroine với giá là 8.000USD/01 bánh để mang về Việt Nam bán cho C ở thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định với giá 12.000USD/01 bánh.

Sau khi thoả thuận mua 10 bánh Heroin của N, chiều ngày 04/5/2019 H bảo T về Việt Nam trước và H đưa cho T 5.000.000 đồng để đi lại (Hkhai số tiền đó là của N đưa cho H và H đã đưa hết cho T). T đi ô tô khách về Việt Nam trước, còn H về tỉnh Hủa Phăn, CHDCND Lào để lấy xe ô tô tự lái đi về Việt Nam sau.

Sáng ngày 05/5/2019, N liên lạc với H và bảo H khi giao ma túy cho khách thì lấy tiền (đô la Mỹ) mang về cho N. N bảo sẽ cho người của N liên lạc với H để giao ma túy, nhưng do H vẫn đang ở CHDCND Lào nên bảo N liên lạc với T và giao ma túy cho T. Sau đó, H liên lạc với T bảo T sáng hôm sau (tức là ngày 06/5/2019) lên cửa khẩu N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để nhận ma túy, nhưng bị cáo H không thừa nhận là gọi điện cho T về nội dung này mà H bảo với N là liên hệ với T giao ma tuý cho T. Chiều ngày 05/5/2019, có người thanh niên dùng số điện thoại 0865.366.916 liên lạc để giao ma túy cho H tại cửa khẩu N nhưng H không nhận mà bảo để giao cho T.

T khai: Sáng ngày 06/5/2019, T đi xe khách từ huyện T, tỉnh Thanh Hóa lên của khẩu N để nhận ma túy. Khi T đến cửa khẩu N, T đã liên lạc với số thuê bao 0865.366.916 (T khai số điện thoại trên do H cho T từ trước) và gặp một thanh niên không biết tên, địa chỉ đi xe máy đưa túi xách đựng 10 bánh Heroin cho T. T mang 10 bánh Heroin đi xe ô tô khách từ cửa khẩu N, huyện T về thành phố Thanh Hoá, sau đó gọi xe taxi do anh Lê Văn C ở huyện T, tỉnh Thanh Hóa điều khiển để về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định. Trên đường đi T và H thường xuyên liên lạc với nhau để biết được thông tin, vị trí của nhau và thống nhất gặp nhau tại khách sạn Hải Dương thuộc địa bàn thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định rồi cùng nhau mang ma túy (Heroin) bán cho C. H khai: Sáng ngày 06/5/2019, H từ CHDCND Lào nhập cảnh về Việt Nam qua cửa khẩu N huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Sau khi nhập cảnh về Việt Nam, H tự lái xe ô tô của H từ cửa khẩu N, huyện T, tỉnh Thanh Hoá về đến thành phố T thì bị hỏng xe, H đưa xe ô tô vào ga ra sửa và gọi taxi do anh Nguyễn Đức T3, sinh năm 1976, trú tại phường Đ, thành phố T chở về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định chờ T mang Heroin về để cùng nhau đem bán cho C. Trên đường đi H và T thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại.

Khoảng 21h ngày 06/5/2019, T về đến thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định thì bị cơ quan Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định kiểm tra phát hiện và bắt giữ. Còn H về đến thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định từ trước và cùng anh T3 (lái xe taxi) lên phòng 206 khách sạn Hải Dương nghỉ và đợi T. Khoảng 23h30’ ngày 06/5/2019, Cơ quan Bộ đội Biên phòng tỉnh Nam Định thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đào Văn H.

Do lời khai của các bị cáo còn có những nội dung mâu thuân nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cho Lê Hữu T và Đào Văn H đối chất nhưng cả hai bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai.

Những nội dung liên quan đến vụ án:

1.1. Từ kết quả việc thực hiện Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại Bưu điện, Cơ quan điều tra tiền hành xác minh tra cứu thông tin của số điện thoại 0865.366.916, kết quả xác định anh Nguyễn Văn T4, sinh năm 1987, trú tại xã P, huyện N, tỉnh Nghệ An (có số CMND 1861886012 do Công an tỉnh Nghệ An cấp ngày 22/12/2008) là chủ nhân số điện thoại 0865.366.916. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nam Định đã ủy thác cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An tiến hành làm việc ghi lời khai đối với anh T4. Anh T4 khai nhận là người đăng ký và đang sử dụng số thuê bao 0865.366.916, hiện tại anh T4 đang làm công trình thủy lợi tại bản Đợi gần cửa khẩu N tỉnh Thanh Hóa, quá trình lao động thi thoảng anh T4 có cho anh em công nhân mượn điện thoại để liên hệ với gia đình. Anh T4 khai không quen biết các bị cáo Lê Hữu T, Đào Văn H và khẳng định không có việc giao dịch mua bán ma túy. Bị cáo T khai bản thân trực tiếp gặp và nhận 10 bánh Heroin của một người nam thanh niên tại khu vực cửa khẩu N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cho bị cáo Lê Hữu T nhận dạng Nguyễn Văn T4 qua bản ảnh nhưng bị cáo T không nhận ra ai trong bảng ảnh nhận dạng (trong đó có cả ảnh của anh Nguyễn Văn T4) là người mà T đã trực tiếp gặp gỡ và nhận 10 bánh Heroin nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ đề nghị xử lý sau.

1.2. Đối với người đàn ông tên C ở thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định là người mà các bị cáo T, H khai đã đặt mua 10 bánh Heroin và người Lào tên là N là người đã bán 10 bánh Heroin cho T và H do chưa xác định được cụ thể thông tin lai lịch, địa chỉ nên cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

1.3. Đối với anh Lê Văn C, sinh năm 1990, trú tại xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa là người lái xe Taxi chở T và anh Nguyễn Đức T3, sinh năm 1976, trú tại: Phường Đ, thành phố T là người lái xe taxi chở H về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định đều khai không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của T và H, phù hợp với lời khai của các bị cáo T, H nên không có căn cứ xác định họ đồng phạm với các bị cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là đúng quy định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2019/HSST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã quyết định:

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Hữu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T tử hình, tiếp tục giam giữ bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án. Phạt tiền bị cáo Lê Hữu T 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Đào Văn H, về xử lý vật chứng, về án phí và thông báo quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/11/2019, bị cáo Lê Hữu T có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại tội danh và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Hữu T cho rằng bị cáo chỉ thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là không đúng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn (Bố mẹ già yếu, con nhỏ và bị cáo là lao động chính trong gia đình) để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T thống nhất về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và cho rằng việc bị cáo đề nghị xem xét lại tội danh là do nhận thức của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét thái độ nhận tội của bị cáo; mức độ tham gia và hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Hữu T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, vật chứng thu giữ được đã kết luận: Lê Hữu T là người khởi xướng việc mua bán trái phép ma túy, chủ động rủ H đến nhà C để trao đổi mua bán ma túy; nhập cảnh sang Lào mua ma túy và nhận ma túy về bán cho C với số lượng đặc biệt lớn (10 bánh Heroin) với mục đích để kiếm lời. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Hữu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng pháp luật. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo T đề nghị xem xét lại tội danh. Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy bị cáo T mua bán ma túy với số lượng đặc biệt lớn nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hữu T về việc xem xét lại tội danh và xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Hữu T thừa nhận có mức độ hành vi phạm tội của mình, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, không mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên , căn cứ lời khai của bị cáo Lê Hữu T tại Cơ quan điều tra (về việc bị cáo T thừa nhận có bàn bạc, thống nhất với H mua ma túy từ Lào về Việt Nam; cùng H đến nhà C ở thị trấn Q để thỏa thuận mua bán ma túy và sang Lào gặp N mua 10 bánh Heroin; là người trực tiếp đi nhận 10 bánh Heroin từ cửa khẩu N, huyện T, Thanh Hóa mang về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định để bán cho C), lời khai của bị cáo Đào Văn H, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Bản kết luận giám định số 444/GĐKTHS ngày 10/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Do có mối quan hệ từ trước với đối tượng tên là C ở thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định. Khoảng cuối tháng 4/2019, C có nhu cầu mua ma túy, Lê Hữu T đã cùng với Đào Văn H về thị trấn Q gặp C để bàn bạc, thống nhất việc mua bán ma túy. Sau khi gặp C, ngày 02/5/2019 T cùng H đi sang Viêng Chăn, Lào gặp đối tượng tên là N để thỏa thuận mua ma túy (10 bánh Heroin) với giá 8000USD/bánh để mang về Việt Nam bán cho C với giá 12.000USD/bánh và thống nhất cách thức giao nhận ma túy. Ngày 06/5/2019, theo sự phân công, Lê Hữu T đã đến khu vực cửa khẩu N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa nhận 10 bánh Heroin có tổng khối lượng là 3.500,160 gam Heroin từ một nam thanh niên mang về nhà nghỉ Hải Dương, thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định gặp Đào Văn H đã đợi T ở đó từ trước để cả hai cùng mang 10 bánh Heroin đi bán cho C, nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng Q, thuộc Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng, tỉnh Nam Định phát hiện bắt giữ. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định đã xét xử bị cáo Lê Hữu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Hữu T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Bị cáo Lê Hữu T là người khởi xướng việc mang ma túy từ nước CHDCND Lào về Việt Nam để bán cho đối tượng có tên là C; là người chủ động rủ Đào Văn H về thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định gặp C bàn bạc, thống nhất việc mua bán ma túy và là người trực tiếp mang 10 bánh Heroin về thị trấn Q để bán cho C. Bản thân T nhận thức được quy định của pháp luật về ma túy, nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với số lượng rất lớn (10 bánh Heroin có trọng lượng là 3.500,160 gam Heroin), thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để xử phạt bị cáo Lê Hữu T mức án tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết mới làm căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Hữu T.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Lê Hữu T không được chấp nhận nên bị cáo Lê Hữu T phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Hữu T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2019/HSST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định; cụ thể như sau:

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Phạt tiền bị cáo Lê Hữu T số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Hữu T phải chịu 200.000đ án phí phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

103
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 363/2020/HS-PT

Số hiệu:363/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về