Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2022/TLST – HS, ngày 23 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn N, tên gọi khác: Không; sinh năm 1988 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Bản T, xã P, huyện Q, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn C (đã chết) và bà Hà Thị T, sinh năm 1955; có vợ Lương Thị Đ, sinh năm 1987; có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/11/2021, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Thị Hải T – Văn phòng Luật sư Hải T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hòa Bình, có mặt.

- Người có quyền lợi, N vụ liên quan: Công ty T; địa chỉ: Tầng 2, tòa nhà R, số 9 đường Đ, phường A, quận B, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lô Bằng G – Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Tiến P – Điều tra cao cấp của Trung tâm an ninh – Công ty tài chính T (theo văn bản ủy quyền số 17/UQ-AN.22 ngày 20/01/2022 – BL 84). Có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 04/11/2021, Lương Văn N đang ở nhà thì nhận được cuộc điện thoại từ số máy 0346.xxx.950 gọi đến giới thiệu tên L nhà ở thành phố H, tỉnh H hỏi mua ma túy gồm 01 cây Heroine, 08 gói hồng phiến và một ít thuốc phiện. N đồng ý và bảo giá là 60.000.000 đồng. Người đàn ông tên L hẹn N khi nào có ma túy thì mang đến khu vực chân dốc Cun thuộc thành phố H, tỉnh HB gọi điện thoại để L ra nhận ma túy và trả tiền.

Khoảng 14 giờ cùng ngày, N cầm 25.000.000đ điều khiển xe mô tô BKS 36H – xxx.15 đến khu vực xã PN, huyện M, tỉnh TH tìm mua ma túy. Tại đây, N gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết và đặt vấn đề mua 01 cây Heroine, 08 gói hồng phiến và một ít thuốc phiện với số tiền 25.000.000 đồng. Người phụ nữ dân tộc Mông đồng ý và nhận 25.000.000đ tồi bảo N đứng chờ để người đó đi lấy ma túy. Khoảng 01 giờ sau người phụ nữ quay lại và đưa cho N 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 bọc ma túy và bảo N trong đó có đủ số ma túy mà N cần mua. Ngoài ra, người phụ nữ còn cho thêm N 01 túi Heroine, 01 túi hồng phiến và một chiếc cân tiểu ly. N cầm toàn bộ số ma túy và cân tiểu ly lên xe mô tô đi về nhà và giấu trong tủ quần áo.

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, N mở tủ quần áo lấy 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 bọc ma túy mà N đã mua được của người phụ nữ dân tộc Mông, để ma túy lên giá đèo hàng của xe mô tô BKS 36H – xxx.15 rồi điều khiển xe đi từ nhà đến thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để bán ma túy cho L theo thỏa thuận. Khoảng hơn 02 giờ ngày 05/11/2022, N đến khu vực chân dốc Cun thuộc tổ 8, phường TB, thành phố H, tỉnh HB và gọi điện thoại cho L, L bảo N chờ ở đấy rồi L ra nhận ma túy. Trong khi đứng đợi L, N cầm số ma túy từ trên giá đèo hàng của xe mô tô đặt xuống đất cạnh chân N đang đứng. Sau đó N bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Lương Văn N gồm: 01 bọc nilon màu đen bên ngoài được quấn dây nịt và nilon màu trắng bên trong có 02 gói nilon màu hồng và 06 gói nilon màu xanh bên trong có chứa các viên nén màu hồng và màu xanh (nghi là ma túy); 01 túi nilon màu trắng bên trong có 02 lớp nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục (nghi là ma túy);

01 bọc nilon bên ngoài là lớp nilon màu hồng, bên trong có 02 lớp nilon màu trắng, trong cùng có chứa chất nhựa dẻo (nghi là ma túy); 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 36H – xxx.15; 01 điện thoại di động nhãn nhiệu BAVAPEN bên trong có lắp 01 sim VIETTEL; 01 căn cước công dân và 01 giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Lương Văn N. Kiểm tra xe mô tô BKS BKS 36H – xxx.15 thu giữ trong cốp xe mô tô 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG bị vỡ nứt cả 2 mặt.

Ngày 5/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra khám xét nơi ở của Lương Văn N, còn thu giữ được bên trong tủ đứng trong buồng ngủ của N: 01 cân tiểu ly; 01 căn cước công dân; 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng 7,32g; 01 túi nilon màu hồng bên trong có chứa xxx viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh có tổng khối lượng là 10,79g, N khai là số ma túy mà N được người phụ nữ dân tộc Mông cho thêm khi N mua 25.000.000 đồng tiền ma túy, N cất giấu với mục đích sau này có ai hỏi mua thì bán kiếm lời.

Tại bản kết luận giám định số: 337/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 31/12/2021của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

- Chất dạng các viên nén màu hồng và màu xanh trong 08 gói nilon ký hiệu từ G1 đến G8 gửi giám định có tổng khối lượng 148,78g, là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất bột dạng cục màu trắng trong gói nilon ký hiệu G9 gửi giám định có khối lượng 37,46g, là ma túy, loại Heroine.

- Chất nhựa dẻo trong bọc nilon ký hiệu G10 gửi giám định có khối lượng 5,83g, là ma túy, loại Thuốc phiện (Nhựa thuốc phiện).

Tại bản kết luận giám định số: 338/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

- Chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì niêm phong một mặt ghi “Tang vật thu giữ khi tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Lương Văn N – SN 1988. HKTT: Tai Giác – Phú Sơn – Quan Hóa – Thanh Hóa ngày 05/11/2021” gửi giám định có khối lượng 7,32g, là ma túy, loại Heroine.

- Chất dạng các viên nén trong phong bì niêm phong một mặt ghi “Tang vật thu giữ khi tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Lương Văn N – SN 1988. HKTT: Tai Giác – Phú Sơn – Quan Hóa – Thanh Hóa ngày 05/11/2021” gửi giám định có khối lượng 10,79g, là ma túy, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 33/CT-VKS- P1 ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố Lương Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lương Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình giữ quyền công tại phiên tòa: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lương Văn N. Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt, Lương Văn N 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định và 01 cân tiểu ly.

- Tịch thu sung công 02 điện thoại di dộng.

- Trả lại cho Lương Văn N 02 (hai) căn cước công dân số 038088015620 và 01 (một) giấy phép lái xe số 170174009432 đều mang tên Lương Văn N.

- Giao lại cho Công ty T: 01 (một) xe mô tô dán nhãn WAVE – Honda. Màu trắng đen bạc, gắn biển kiểm soát 36H5 – xxxxx.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Lương Văn N trình bày quan điểm:

Nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Lương Văn N về tội Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo Lương Văn N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm của mình. Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, là người dân tộc thiểu số, gia đình bị cáo là hộ cận nghèo.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 điều 51 cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất nhất và không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố cơ quan công an, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, kết luận điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 04/11/2021, N đã thực hiện hành vi mua trái phép 204,446g ma túy (gồm 159,57g Methamphetamine, 44,78g Heroine, 5,83g nhựa thuốc phiện tương đương 0,116g Methamphetamine) của một người phụ nữ không quen biết tại xã PN, huyện M, tỉnh TH với số tiền 25.000.000 đồng với mục đích bán cho người đàn ông tên L để kiếm lời. Trong lúc chờ L đến nhận ma túy thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiển sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Lương Văn N về tội mua bán trái phép chất ma túy theo tội danh và điều luật như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự an ninh tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nghiêm trọng khác, do vậy cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do hám lợi mà bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo thể hiện coi thường pháp luật, do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo N không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lương Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và là người dân tộc thiểu số, gia đình bị cáo là hộ cận nghèo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội bị bắt quả tang chưa được hưởng lợi, là lao động tự do, không có nghề nghiệp, gia đình là hộ cận nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS.

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông là người đã bán ma túy cho bị cáo Lương Văn N tại khu vực xã PN, huyện M, tỉnh TH và người đàn ông tên L ở thành phố H, tỉnh HB do căn cước, lai lịch không rõ ràng, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với số thuê bao 034619xxxx được đăng ký dưới tên Dương Tài X, sinh ngày 02/9/1940, trú tại: Tổ 9, phường TN, thành phố H, tỉnh HB, ông X không đăng ký và sử dụng số điện thoại nêu trên, không quen biết ai tên Lương Văn N. Do chưa có tài liệu thể hiện ông X có liên quan đến hành vi phạm tội của N và người đàn ông tên L, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, điều tra, có căn cứ sẽ xử lý sau.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo N là vật nhà nước cấm lưu hành và 01 cân tiểu ly không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo. Đây là vật chứng bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- 02 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Lương Văn N. Xét đây là giấy tờ cá nhân, cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36H5 – xxx.15. Đây là xe mô tô nhãn hiệu Hon đa Wave Alpha bị cáo N mua tại cửa hàng kinh doanh xe máy Mạnh Cường tháng 8/2021 với giá 21.000.000đ, trả trước được 3.000.000đ, còn lại vay trả góp tại Công ty tài chính T với số tiền 18.990.000đ (đã bao gồm phí bảo hiểm) theo hợp đồng tín dụng số 202110801-5961748 ngày 21/12/2020 và lập hợp đồng thế chấp tài sản số 202110801-5961748 ngày 01/8/2021.

Đại diện Công ty T xác nhận Lương Văn N vay tiền mua xe hình thức trả góp với tổng số tiền là 18.990.000đ đã thanh toán được 02 kỳ với số tiền 5.608.000 đồng, Tính đến thời điểm trước ngày 31/12/2022, N còn phải thanh toán số tiền gốc và lãi là 17.729.410đ. Phía công ty T đề nghị được nhận lại tài sản thế chấp là xe mô tô để thanh lý hoàn tất N vụ thanh toán của khách hàng Lương Văn N. Phía bị cáo N xác nhận không có khả năng trả nợ nên đồng ý giao lại xe mô tô trên cho Công ty T.

Xét thấy, xe mô tô BKS 36H5 – xxx.15 là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội tuy nhiên đây là tài sản thế chấp cho hợp đồng tín dụng giữa Lương Văn N và Công ty T. Căn cứ Điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về Thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, HĐXX xét thấy cần giao lại tài sản thế chấp là xe mô tô BKS36H5 – xxx.15 cho Công ty T để xử lý thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn N phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Lương Văn N 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (05/11/2021).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

3.1 Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) hộp niêm phong dán kín còn nguyên vẹn. Một mặt đề chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định. Vụ Lương Văn N, sinh năm 1988 – phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 05/11/2021, tại phường TB, thành phố H, tỉnh HB. 08 mẫu ma túy, loại Methamphetamine (G1: 16,72g; G2: 16,88g; G3: 16,33g; G4: 16,11g; G5: 16,33g; G6: 17,12g; G7: 16,86g; G8: 17,13g) 01 mẫu ma túy loại Heroine (G9: 32,77g); 01 mẫu ma túy, loại thuốc phiện (G10: 3,12g).” Tại mép dán có chữ ký Ng Ngọc T, Đỗ Thành C tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hòa Bình. (Một số dấu mờ nhòe không rõ nét).

- 01 (một) phong bì niêm phong dán kín còn nguyên vẹn. Một mặt đề chữ: “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Lương Văn N, sinh năm 1988 – phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 05/11/2021, phường TB, thành phố H, tỉnh HB. 6,13g mẫu ma túy, loại Heroine và 9,25g mẫu ma túy, loại Methamphetamine.” Trên mép dán có chữ ký Ng Ngọc T, Đỗ Thành C tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hòa Bình. (Một số dấu mờ nhòe không rõ nét).

3.2. Tịch thu sung Ngân sách nhà nước:

- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu BAVAPEN màu đen, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel. Máy đã cũ chày xước và qua sử dụng, không tiến hành kiểm tra chi tiết bên trong.

- 01 (một) điện thoại di động có chữ SAMSUNG màu đen, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel. Máy đã cũ chày xước và qua sử dụng, không tiến hành kiểm tra chi tiết bên trong.

- 01 (một) cân tiểu ly vỏ ngoài bằng gỗ đã cũ.

3.3. Trả lại cho bị cáo Lương Văn N:

- 02 (hai) thẻ căn cước công dân số 038088015620 mang tên Lương Văn N - 01 (một) giấy phép lái xe số 170174009432 mang tên Lương Văn N

3.4. Giao trả lại cho Công ty T: 01 (một) xe mô tô dán nhãn WAVE – Honda. Màu trắng đen bạc, gắn biển kiểm soát 36H5 – xxxxx; số máy: JA39E2262727; số khung: RLHJA3921MY145420. Xe đã chày xước nhiều chỗ và qua sử dụng không tiến hành kiểm tra các bộ phận chi tiết xe (xe không gương).

(Chi tiết vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng số39/BB – GNVC ngày 29 tháng 6 năm 2022 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình).

4. Về án phí: Căn cứ điều 135,136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lương Văn N phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lương Văn N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi, N vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về