TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 322/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 12 năm 2023 tại điểm cầu trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H và điểm cầu Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố H, Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 334/2023/TLST-HS ngày 23/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 334/2023/QĐXXHS-ST ngày 04/12/2023 đối với bị cáo:
PHẠM DUY Đ; Sinh năm 1959 tại H; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Số X Bạch Đằng, phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, thành phố H; Chỗ ở: Ngõ X Thanh Đàm, phường Thanh Trì, quận H, thành phố H; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Duy T (Đã chết) Con bà: Lê Thị B (Đã chết); Có vợ Phan Thị T (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 1993; Danh chỉ bản số 530, lập ngày 18/9/2023, tại Công an quận H, thành phố H; Tiền án, tiền sự:
Không.
Nhân thân: 04 tiền án - Bản án số 116/1982/HSST ngày 31/5/1982 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử phạt 24 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Bản án số 193/1984/HSST ngày 09/7/1984 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử phạt 30 tháng tù, về tội “Lừa dảo chiếm đoạt tài sản của công dân”.
- Bản án số 1466/1991/HSST ngày 07/11/1991 của Tòa án nhân dân tối cao tại H xử phạt 03 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.
- Bản án số 397/2028/HSST ngày 26/9/2008 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố H xử phạt 48 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Bị bắt ngày: 09/8/2023; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an TP H. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 9 giờ 35 phút, ngày 09/8/2023, tại khu vực trước cửa số nhà X ngõ XX Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H, tổ công tác Công an phường Lĩnh Nam làm nhiệm vụ tại địa bàn đã phát hiện, bắt quả tang đối tượng Phạm Duy Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Đ 02 gói giấy bạc kích thước 0,51x1cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Đ khai là ma túy loại heroin mua hộ một người đàn ông không quen biết. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong và thu giữ vật chứng, đưa Đ cùng tang vật thu giữ về trụ sở Cơ quan Công an để điều tra làm rõ.
Vật chứng vụ án: Thu giữ của Phạm Duy Đ 02 gói giấy bạc kích thước 0,51x1cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 xe máy Honda Blade biển kiểm soát: 29E2-xxxxx và 01 điện thoại Nokia màu đen trong lắp sim 097149xxxx.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Duy Đ khai: Khoảng 8 giờ 43 phút ngày 09/8/2023 có 01 người đàn ông sử dụng số thuê bao 094651xxxx gọi vào số thuê bao 097149xxxx của Đ nhờ đi đến khu vực trường S, đường Nguyễn Khoái, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H có việc. Đ đồng ý, sau đó điều khiển xe máy Honda Blade biển kiểm soát: 29E2-xxxxx đi đến điểm hẹn. Tại đây, người đàn ông đã nhờ Đ đi mua hộ ma túy và đưa cho Đ 01 tờ giấy ghi địa chỉ số X Ngõ XX Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H, khi đến nơi gặp 01 người tên H để mua ma túy. Sau đó, Đ điều khiển xe máy đi trước, người đàn ông điều khiển một xe máy khác đi theo sau. Khi đến khu vực ngõ X Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, H, H thì Đ và người đàn ông đó dừng lại. Tại đây, người đàn ông đưa cho Đ số tiền 400.000 đồng (gồm 02 tờ polymer mệnh giá 200.000 đồng) và dặn Đ mua 02 gói ma túy và đem quay lại khu vực trường S, đường Nguyễn Khoái, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H để đưa cho người này, Đ sẽ được trả công số tiền 100.000 đồng. Sau đó, Đ cầm tiền, đi đến địa chỉ: số X, Ngõ XX phố Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H. Tại đây, Đ gọi "H ơi" thì có 01 người đi ra, vì người này đứng sau cổng sắt nên Đ không nhìn thấy rõ mặt. Đ nói "lấy cho 02 cái". Sau đó Đ đưa tay qua ô cửa cổng sắt số tiền 400.000 đồng, người này cầm tiền đi vào trong nhà rồi quay ra đưa lại cho Đ 02 gói ma túy. Đ cầm 02 gói ma túy mua được trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy quay về khu vực trường S để giao cho người đàn ông đã nhờ mua hộ. Khi đi đến khu vực trước cửa số nhà XX ngõ X, phố Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H bị cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng như đã nêu trên.
Kết luận giám định số 5489/KL-KTHS ngày 18/08/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc là ma túy loại heroin, tổng khối lượng: 0,178 gam.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định tại địa chỉ số X Ngõ XX Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H là nơi sinh sống của Vũ Mạnh H (sinh năm 1973; HKTT: X Ngõ XX Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H). Tại Cơ quan điều tra, H không khai nhận đã bán ma túy cho Phạm Duy Đ vào ngày 09/8/2023 tại khu vực nhà H. H khai bản thân sinh sống một mình tại địa chỉ số X, Ngõ XX, phố Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H và thỉnh thoảng có một số bạn bè xã hội đến ngủ nhờ. Ngày 09/8/2023, H ra khỏi nhà từ sáng sớm và trong nhà chỉ có một người tên là A là bạn xã hội của H đến ngủ nhờ từ trước đó. Khi H về đến nhà thì A cũng đã ra về không biết từ lúc nào. H không biết A tên tuổi, địa chỉ ở đâu. Quá trình điều tra, Phạm Duy Đ khai không nhìn thấy người đã bán ma túy cho Đ. Do đó, ngoài lời khai của Phạm Duy Đ, hiện không có tài liệu nào khác để xác định hành vi bán ma túy của Vũ Mạnh H cho Đ. Do đó, Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý đối với Vũ Mạnh H.
Đối với người đàn ông sử dụng số thuê bao 094651xxxx nhờ Đ mua hộ ma túy. Quá trình điều tra xác định chủ đăng ký số thuê bao trên là anh Phạm Văn T (sinh năm 1989, trú tại: 7/9/120 Nguyễn Khuyến, phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố H). Tại cơ quan điều tra, anh T khai trước đây làm nghề kinh doanh sim thẻ và có đứng tên đăng ký số thuê bao trên. Sau đó, anh T đã bán lại số thuê bao này cho khách mua (không biết tên, tuổi địa chỉ). Ngoài lời khai của Phạm Duy Đ, hiện không có tài liệu nào khác để xác định nhân thân của người đàn ông trên. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
Đối với xe máy Honda Blade biển kiểm soát: 29E2-xxxxx thu giữ của Phạm Duy Đ. Quá trình điều tra xác định xe mang biển kiểm soát: 37F2-xxxxx và chủ đăng ký là Nguyễn Văn Q (sinh năm 1976, trú tại: Xóm X xã Diễn Cát, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Chiếc xe này được anh Q cho anh Phạm Quốc G (sinh năm 1983, trú tại: xã Yên Trị, huyện Ý Yên, Nam Định) mượn để hành nghề xe ôm. Quá trình anh G sử dụng chiếc xe bị rơi mất chiếc biển kiểm soát: 37F2-xxxxx nên khi nhặt được chiếc biển kiểm soát: 29E2-xxxxx (anh G không nhớ nhặt được ở đâu) anh G đã lắp tạm vào xe thay thế. Ngày 08/8/2023, anh G nhờ Phạm Duy Đ giữ hộ chiếc xe để về quê và không biết việc Đ sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy. Xét không liên quan đến vụ án, ngày 01/11/2023 cơ quan CSĐT-CAQ H đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 286 trao trả chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Văn Q.
Đối với chiếc biển kiểm soát: 29E2-xxxxx, quá trình điều tra xác định số biển kiểm soát này được cấp cho xe máy nhãn hiệu Honda Wave, chủ đăng ký là chị Hoàng Thị L (sinh năm 1979, trú tại: X Hồ Đắc Di, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố H). Chị L khai nhận vẫn đang sử dụng chiếc xe bình thường, không bị mất biển kiểm soát. Cơ quan điều tra đã chuyển biển kiểm soát:
29E2-xxxxx đến Chi cục Thi hành án Dân sự quận H, để chờ quyết định xử lý.
Đối với 01 điện thoại Nokia màu đen thu giữ của Phạm Duy Đ, quá trình điều tra xác định là điện thoại của Đ sử dụng vào việc liên lạc hàng ngày và liên hệ với người nhờ mua hộ ma túy ngày 09/8/2023. Cơ quan điều tra đã chuyển chiếc điện thoại này đến Chi cục Thi hành án Dân sự quận H, để chờ quyết định xử lý.
Quá trình điều tra, Phạm Duy Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị can phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Tại Bản cáo trạng số 321/CT-VKS-HM ngày 20/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H truy tố Phạm Duy Đ về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận hành vi như đã khai tại Cơ quan điều tra; Bị cáo thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng hành vi bị cáo đã thực hiện và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Đề nghị: Xử phạt bị cáo Phạm Duy Đ mức hình phạt từ 28 đến 32 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy ma túy và 01 BKS 29E2-xxxxx; tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên và của các Cơ quan tiến hành tố tụng.
Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và các Cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo đúng thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh, hình phạt: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, cùng tang vật thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Hồi 9 giờ 35 phút, ngày 09/8/2023, tại khu vực trước cửa số nhà X ngõ XX, phố Thúy Lĩnh, phường Lĩnh Nam, quận H, thành phố H, Phạm Duy Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,178 gam heroin mục đích để bán lại, chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Vì vậy, cần có mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để có đủ tác dụng cải tạo đối với bị cáo.
[3]Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3.1]Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nhân thân bị cáo đã có bốn tiền án mặc dù đã được xóa án tích nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu.
[3.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.
Do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập kinh tế ổn định nên miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[4]Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định và 01 biển kiểm soát 29E2-xxxxx; tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo; theo Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Duy Đ phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Căn cứ: khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Duy Đ 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/8/2023.
Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền cho bị cáo.
Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu, tiêu hủy một bao niêm phong bên trong chứa 0,178 gam Heroine và 01 BKS 29E2-xxxxx.
- Tịch thu sũng quỹ Nhà nước một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số imei 358952053435327; imei 2: 358952053435335.
Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Cơ quan thi hành án dân sự quận H, thành phố H theo phiếu nhập vật chứng số 0043 ngày 22/11/2023.
Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.
Bị cáo Phạm Duy Đ pH nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 322/2023/HS-ST
Số hiệu: | 322/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về