Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ CÚ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

- Kiên Thanh H, sinh ngày 04/8/1993, tại huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; Nơi thường trú ấp Ch, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Khmer; giới T1: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiên Thanh T, sinh năm 1977 và bà Dương Ánh Ng, sinh năm 1975; bị cáo có vợ Trầm Thị D, sinh ngày 05/9/1994 và 03 người, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án: 01 tiền án, theo Bản án số 27/2013/HSPT, ngày 16/5/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh kết án 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/9/2014, được miễn nộp án phí hình sự, trách nhiệm dân sự chưa chấp hành xong nhưng đến nay đã hết thời hiệu thi hành án nên bị cáo H được coi đã xóa án tích; tiền sự: 01 tiền sự theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 08/QĐ-XPHC, ngày 17/01/2023 bị Công an xã Đại An phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép, chưa được xóa về tiền sự; nhân thân: Đã từng bị kết án, nhưng đã xóa án tích và bị xử lý vi phạm hành chính chưa được xóa về tiền sự; Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 27/4/2023 đến ngày 02/5/2023 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Kiên Thanh H: Ông Diệp Minh Tr, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Trà Vinh, có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Trương Hoài H, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp GiLB, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt Anh Thạch Văn T, sinh năm 2004. Địa chỉ: ấp GiLB, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt Anh Sơn Văn Đ, sinh năm 2006. Địa chỉ: ấp vàm RC, xã LV, huyện DH, tỉnh Trà Vinh, vắng mặt Bà Trần Thị D, sinh năm 1994. Địa chỉ: ấp Ch, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 15 giờ ngày 27/4/2023, bị cáo Kiên Thanh H đang ở nhà tại ấp Ch, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh có Trương Hoài H1 và Thạch Văn T1 đến mua ma túy về để sử dụng, H1 mua ma túy số tiền 200.000 đồng, bị cáo H đồng ý bán, bị cáo H đi vào trong buồng lấy ma túy để trong hộp nhựa cất giấu sau nhà sát vách, bị cáo H lấy 01 đoạn ống nhựa sọc màu vàng, hàn kín hai đầu, ma túy chứa bên trong đem bán H1, H1 trả cho bị cáo H bằng tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, bị cáo H thối lại cho H1 số tiền 300.000 đồng, do trước đây H1 còn nợ bị cáo H số tiền 100.000 đồng nên bị cáo H yêu cầu trả, H1 đồng ý trả, H1 trả bị cáo H bằng tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, còn lại tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, lúc này T1 hỏi mua 200.000 đồng ma túy, bị cáo H đồng ý bán, T1 mượn tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng của H1 trả cho bị cáo H, bị cáo H nhận tiền, vào trong buồng lấy ma túy để bán cho T1, bị cáo H mới đi vào buồng chưa kịp lấy ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang.

Tại thời điểm kiểm tra, Cơ quan điều tra phát hiện H1 đang cất giấu giấu 01 đoạn ống nhựa có sọc màu vàng, được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể, H1 trình bày là ma túy vừa mới mua của bị cáo H. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo H, kết quả phát hiện tại vị trí ngoài nhà, sát vách sau có 01 nhựa màu trắng, nấp màu xanh để dưới cỏ dùng lá tre khô phủ lại, kiểm tra bên trong hộp nhựa phát hiện bị cáo H cất giấu 04 đoạn ống nhựa có sọc màu vàng, 02 đoạn ống nhựa có sọc màu trắng, màu đỏ, tất cả được hàn kín, bên trong đều có chứa chất tinh thể nghi là ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Cú tiến hành lập biên bản tạm giữ.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo H đã thừa nhận chất tinh thể trong 01 (một) đoạn ống nhựa có sọc màu vàng, được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể đã bán cho H1 và 06 (sáu) đoạn ống nhựa qua khám xét đều là chất ma túy, bị cáo H cất giấu toàn bộ số ma túy trên nhằm mục đích để bán trái phép cho người khác. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn phát hiện trong ngăn tủ 01 cây nỏ bằng thủy tinh bị bể đầu chứa ma túy, 01 (Một) cây nhíp bằng kim loại, chiều dài 15 cm, đầu nhíp màu đen do bị đốt nóng, 01 (Một) cây kéo bằng kim loại, loại kéo cắt chỉ, chiều dài 11 cm, 132 (Một trăm ba mươi hai) ống hút sọc màu xanh, sọc màu vàng, sọc màu đỏ, chiều dài mỗi ống 18cm; 74 (Bảy mươi bốn) ống hút sọc màu trắng - xanh, sọc màu trắng - vàng, sọc màu trắng - đỏ, chiều dài mỗi ống 22cm; 43 (Bốn mươi ba) ống hút màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu tím, màu cam chiều dài mỗi ống 27 cm; phát hiện trong hộp nhựa trên đầu tủ nhựa trong phòng 01 cây nỏ bằng thủy tinh chưa sử dụng, trong ngăn tủ nhựa 97 ống thủy tinh; phát hiện sát vách bên ngoài nhà sau, 01 (một) hộp giấy màu cam, chiều dài 11cm, chiều ngang 6cm, chiều cao 6cm, bên trong hộp có 03 đoạn ống hút sọc màu vàng, 06 gói nhựa bằng ny long, để dưới cỏ dùng lá tre khô phủ lại.

Quá trình điều tra mở rộng vụ án đối với bị cáo H ngoài bán trái phép chất ma túy cho H1 và T1, bị cáo H còn bán trái phép chất ma túy Sơn Văn Đ, sinh ngày 09/2/2006, địa chỉ ấp Vàm Rạch Cỏ, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh với số tiền 200.000 đồng, Đ sau khi mua trên đường tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an tuần tra phát hiện.

Căn cứ vào Bản kết luận giám định số: 295/KL-KTHS và 296/KL-KTHS ngày 02/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh, kết luận:

- Tinh thể chứa trong 01 (một) đoạn ống nhựa bị cáo H đã bán cho H1 là Ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0481 gam.

- Tinh thể chứa trong 06 (sáu) đoạn ống nhựa phát hiện qua khám xét là Ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,5127 gam.

- Tinh thể chứa trong 01 (một) đoạn ống nhựa bị cáo H đã bán cho Đ là Ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0454 gam.

Ngày 02/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Cú ra quyết định tạm giữ đồ vật gồm:

- Gói 01: Tinh thể (sau giám định) có khối lượng 0,0463 gam được để trong phong bì niêm phong số: 295/M1, ghi ngày 02/5/2023, với hình dấu tròn màu đỏ có nội dung PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TRÀ VINH và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Mạnh, Hà Quốc H1.

- Gói 02: Tinh thể (sau giám định) có khối lượng 0,4952 gam được để trong phong bì niêm phong số: 295/M2, ghi ngày 02/5/2023, với hình dấu tròn màu đỏ có nội dung PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TRÀ VINH và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Mạnh, Hà Quốc H1. Riêng số ma túy mà bị cáo H bán cho Sơn Văn Đ, quá trình giám định, Cơ quan giám định đã sử dụng hết.

- 97 (Chín mươi bảy) đoạn ống thủy tinh rỗng hai đầu, chiều dài mỗi đoạn 20 cm, đường kính 6 cm; 01 (một) cây nỏ bằng thủy tinh dùng để sử dụng ma túy, chưa qua sử dụng; 01 (một) cây nỏ bằng thủy tinh dùng để sử dụng ma túy, đã qua sử dụng, đẩu nỏ bị bể; 01 (Một) cây nhíp bằng kim loại, chiều dài 15 cm, đầu nhíp màu đen do bị đốt nóng; 01 (Một) cây kéo bằng kim loại, loại kéo cắt chỉ, chiều dài 11 cm; 01 (một) hộp nhựa màu trắng, nắp hộp màu xanh, chiều cao 4cm, đường kính 2,6 cm; 01 (Một) hộp giấy màu cam, chiều dài 11cm, chiều ngang 6cm, chiều cao 6cm, bên trong hộp có 03 đoạn ống hút sọc màu vàng, 06 gói nhựa bằng ny long. Tất cả được niêm phong trong túi niêm phong, mã số: PS3 1903403 - 132 (Một trăm ba mươi hai) ống hút sọc màu xanh, sọc màu vàng, sọc màu đỏ, chiều dài mỗi ống 18cm; 74 (Bảy mươi bốn) ống hút sọc màu trắng - xanh, sọc màu trắng - vàng, sọc màu trắng - đỏ, chiều dài mỗi ống 22cm; 43 (Bốn mươi ba) ống hút màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu tím, màu cam chiều dài mỗi ống 27 cm.

- Tiền mặt 700.000 (Bảy trăm nghìn) đồng.

Qua điều tra, chứng minh được 97 ống thủy tinh, toàn bộ ống hút không phải là phương tiện, dụng cụ dùng để sử dụng ma túy nên không có căn cứ xử lý bị cáo H về tội tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng cụ ma túy nên Cơ quan điều tra trả lại cho bị cáo H. Đối với hộp nhựa màu trắng nắp màu xanh, hộp giấy màu cam, có 03 đoạn ống hút sọc màu vàng, 06 gói nhựa bằng ny long, 01 cấy kéo, 01 cây nhíp là dụng cụ để sang chiết và cất giấu ma túy nên Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ. Đối với 02 (hai) cây nỏ bằng thủy tinh tạm giữ tại nhà bị cáo H, xác định là dụng cụ dùng để sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra đã chuyển Công an huyện Trà Cú xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ phượng tiện dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy quy định tại điểm c khoản 2 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ, xử phạt bị cáo H với số tiền 3.500.000 đồng, đồng thời tịch thu, tiêu hủy 02 cây nỏ trên.

Riêng số tiền 100.000 đồng (trong tổng số tiền 700.000 đồng mà Cơ quan điều tra đã thu giữ từ bị cáo H và nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Cú), theo lời khai của H1 cho rằng đây là số tiền H1 còn thiếu bị cáo H của lần mua ma túy trước đó. Vào ngày bị bắt quả tang 27/4/2023, H1 trả cho bị cáo H, bị cáo H thì không thừa nhận trước đây từng bán ma túy cho H1. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để chứng minh đây là số tiền do bị cáo H mua bán ma túy mà có. Do đó, cần phải trả lại số tiền 100.000 đồng nêu trên cho bị cáo H.

Về nguồn gốc ma túy bị cáo H khai mua của một người thanh niên không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể tại thành phố Hồ Chí Minh, trước khi bị bắt khoảng 01 tháng, do không chứng minh được hành vi bán ma túy của người thanh niên nêu trên, do đó khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Trương Hoài H1, Sơn Văn Đ có hành vi mua trái phép chất ma túy của bị cáo H nhằm mục đích sử dụng, không nhằm mục đích để bán trái phép cho người khác, trong đó khối lượng ma túy H1 đã mua là 0,0481 gam, của Sơn Văn Đ là 0,0454 gam, không đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Kết quả xác minh H1 và Đ chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị kết án về các tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, chiếm đoạt chất ma túy, do đó hành vi của H1 và Đ chỉ vi phạm hành chính. Tuy nhiên trong thời gian kiểm tra xác minh, chưa lập biên bản vi phạm, Trương Hoài H1, Sơn Văn Đ đã bỏ địa phương, đi đâu không rõ địa chỉ nên Công an huyện Trà Cú sẽ xem xét xử lý sau. Còn Thạch Văn T1 chưa mua được ma túy nên Công an huyện Trà Cú không xem xét xử lý.

Đối với bà Trần Thị D, là vợ của bị cáo H, sinh sống cùng bị cáo H, qua điều tra làm rõ bà D không cùng bị cáo H bán trái phép chất ma túy, không xúi giục, không giúp sức, cũng không bao che cho bị cáo H bán ma túy tại nhà, việc bị cáo H bán trái phép chất ma túy bà D không biết, do đó bà D không vi phạm pháp luật.

Tại Cáo trạng số: 37/CT-VKS-HS, ngày 31/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Kiên Thanh H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Kiên Thanh H trình bày thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo cho rằng, do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn, vợ bị cáo không có việc làm, hàng ngày bị cáo đi làm hồ thu nhập chỉ chỉ có 200.000 đồng không đủ nuôi sống gia đình nên bị cáo mới nảy sinh ý định bán ma túy để kiếm tiền nuôi vợ, nuôi con. Bị cáo không thay đổi lời khai và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về phụ vợ nuôi các con còn nhỏ, hiện tại vợ bị cáo đang mang thai đứa con thứ tư.

Phần luận tội, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh, T1 chất mức độ hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Kiên Thanh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Đề nghị áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Kiên Thanh H từ 08 năm đến 09 năm tù. Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án; đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng do phạm tội mà có, trả lại cho bị cáo 100.000 đồng. Về án phí đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo tự bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về gia đình và xã hội.

- Người bào chữa cho bị cáo Kiên Thanh H phát biểu: Thống nhất cáo trạng truy tố bị cáo Kiên Thanh H là đúng người, đúng tội. Người bào chữa cho rằng, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo khai báo chi tiết vụ việc để Cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án, bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Khmer) thuộc diện hộ cận nghèo, trình độ học vấn thấp nên am hiểu pháp luật có phần bị hạn chế, là lao động chính gia đình, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo rất khó khăn, 03 con nhỏ, hiện tại vợ bị cáo đang mang thai, nhưng vợ bị cáo không có nghề nghiệp, hiện tại con bị cáo bệnh hiểm nghèo không tiền điều trị. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt để vừa thể hiện T1 răn đe vừa thể hiện giáo dục và khoan hồng của pháp luật; đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự cho bị cáo, do bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 27/4/2023 và quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Kiên Thanh H có lời khai thừa nhận vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27/4/2023, tại nhà ở của bị cáo Kiên Thanh H thuộc ấp Ch, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh, bị cáo H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Sơn Văn Đ (0,0454 gam). Đến khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày và tại địa điểm nêu trên, bị cáo H tiếp tục có hành vi bán ma túy cho Trương Hoài H1 (0,0481 gam) và bán ma túy cho Thạch Văn T1 thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Cú đến kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Như vậy, tổng lượng ma tuý mà bị cáo H mua bán trái phép và phải chịu trách nhiệm theo Bản kết luận giám định số: 295/KL- KTHS và 296/KL-KTHS ngày 02/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận là 0,6062 gam. Lời khai của bị cáo Kiên Thanh H là phù hợp với hiện trường án, phù hợp với thời gian bị cáo có mặt tại hiện trường vụ án, phù hợp lời khai của người trực tiếp và gián tiếp mua ma túy từ bị cáo là Sơn Văn Đ, Trương Hoài H1 và Thạch Văn T1; phù hợp với Bản kết luận giám định số: 295/KL-KTHS và 296/KL-KTHS ngày 02/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh.

[2] Hành vi của bị cáo Kiên Thanh H đã vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ra một lớp người nghiện ma túy trong xã hội, tác động xấu về đạo đức, lối sống, sức khoẻ, tri thức của thanh thiếu niên, ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động của xã hội, gây ra nhiều hệ lụy và là nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, giết người… gây bức xúc trong quần chúng Nhân dân và chính quyền các cấp. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bởi vì bị cáo nhận thức rõ mình thực hiện hành vi bị pháp luật cấm và gây nguy hiểm cho xã hội. Do đó, hành vi của bị cáo Kiên Thanh H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với 02 tình tiết định khung tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Tội phạm bị cáo Kiên Thanh H thực hiện là rất nghiệm trọng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh kết án 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (đã xóa án tích) và bị Công an xã Đại An phạt số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 08/QĐ-XPHC, ngày 17/01/2023 chưa được xóa về tiền sự. Để góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo vệ cuộc sống bình yên, lành mạnh và hạnh phúc của Nhân dân thì hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo pháp luật, cần phải xử phạt bị cáo Kiên Thanh H mức án tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội đối với những hành vi tượng tự.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo Kiên Thanh H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là lao động chính trong gia đình, thuộc diện hộ cận nghèo, là người dân tộc Khmer có học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật có phần bị hạn chế, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, có 03 con nhỏ và vợ đang mang thai đứa con thứ 4, mọi nhu cầu thiết yếu của cuộc sống gia đình phụ thuộc vào bị cáo, bởi vợ bị cáo không nghề nghiệp gì, nhưng nghề nghiệp bị cáo không ổn định, thu thập từ làm thuê (làm thợ hồ) mỗi ngày 200.000 đồng không đủ nuôi sống gia đình 05 nhân khẩu, đây cũng là nguyên nhân bị cáo phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy thu giữ được (sau khi đã lấy ra một phần để giám định) là chất cấm sử dụng; các dụng cụ sử dụng sang chiếc ma túy là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy. Số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo Kiên Thanh H là tiền thu nhập bất chính cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Riêng số tiền 100.000 đồng còn lại bị cáo H không thừa nhận trước đây từng bán ma túy cho H1 nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, do bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn toàn bộ án hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Hội đồng xét xử đã thẩm tra các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bào chữa cho bị cáo được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố: Bị cáo Kiên Thanh H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt bị cáo Kiên Thanh H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù T1 từ ngày 27/4/2023.

Việc xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy vật chứng vụ án sau đây:

- Gói 01: Tinh thể (sau giám định) có khối lượng 0,0463 gam được để trong phong bì niêm phong số: 295/M1, ghi ngày 02/5/2023, với hình dấu tròn màu đỏ có nội dung PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TRÀ VINH và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Mạnh, Hà Quốc H1.

- Gói 02: Tinh thể (sau giám định) có khối lượng 0,4952 gam được để trong phong bì niêm phong số: 295/M2, ghi ngày 02/5/2023, với hình dấu tròn màu đỏ có nội dung PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TRÀ VINH và các chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Mạnh, Hà Quốc H1.

- 01 (Một) cây nhíp bằng kim loại, chiều dài 15 cm, đầu nhíp màu đen do bị đốt nóng;

- 01 (Một) cây kéo bằng kim loại, loại kéo cắt chỉ, chiều dài 11 cm;

- 01 (một) hộp nhựa màu trắng, nắp hộp màu xanh, chiều cao 4cm, đường kính 2,6 cm;

- 01 (Một) hộp giấy màu cam, chiều dài 11cm, chiều ngang 6cm, chiều cao 6cm, bên trong hộp có 03 đoạn ống hút sọc màu vàng, 06 gói nhựa bằng ny long. Tất cả được niêm phong trong túi niêm phong, mã số: PS3 1903403 Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo Kiên Thanh H. Trả lại cho bị cáo Kiên Thanh H 100.000 đồng (trong số tiền đã thu giữ 700.000 đồng).

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Kiên Thanh H

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Kiên Thanh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về