TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 32/2022/HS-PT NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng02 N 2022 tại Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 02 N 2022 đối với bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ) do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 146/2021/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Hữu Đ (Đ), sinh N 1975, tại: tỉnh Bình T; nơi Đ ký nhân khẩu thường trú: Tổ 39, khu phố 5, phường Đức N, thành phố Phan T, tỉnh Bình T; nơi cu trú: 05/57, khu phố thanh Bình A, thị trấn Gò D, huyện Gò D, tỉnh Tây N; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị P (đã chết); có vợ và 02 con; tiền sự: không có; tiền án: tại Bản án số 151 ngày 11/10/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xử phạt 04 N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự 1999 (bị cáo chưa chấp hành nộp phạt bổ sung); bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 08/4/2021; tam giam ngày 17/4/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị B; sinh N 1975; địa chỉ cu trú: Ô 5/57, khu phố Thanh Bình A, thị trấn Gò D, huyện Gò D, tỉnh Tây N; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu Đ là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng tháng 3/2021, Đ bắt đầu hoạt động mua bán trái phép chất ma túy để có ma túy sử dụng và có tiền tiêu xài. Đ nhiều lần mua ma túy của người tên Ba không rõ lý lịch tại Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần 800.000 đồng, sau đó đem về nhà thuộc khu phố Thanh Bình A, thị trấn Gò D, huyện Gò D, phân ra thành nhiều bịch nhỏ cất giấu để sử dụng và bán cho những người nghiện. Đ đã bán ma túy cho những người nghiện, cụ thể như sau:
- Bán ma túy cho Bùi Thanh Hùng 01 lần với số tiền 100.000 đồng vào ngày 06/4/2021, tại nhà của Đ.
- Bán ma túy cho Nguyễn Văn Tính 01 lần với số tiền 100.000 đồng vào ngày 07/4/2021, tại nhà của Đ.
- Khoảng 11 giờ ngày 08/4/2021, Đặng Văn Bảo và Trần Quang Trường hùn mỗi người 100.000 đồng đến nhà của Đ mua 02 bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng thì bị Công an huyện Gò D bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: thu trong túi quần của Bảo 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh lục và 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc đỏ bên trong chứa chất rắn màu trắng được niêm phong (Ký hiệu M1); thu dưới đất phía sau nhà của Đ 05 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh lục bên trong chứa chất rắn màu trắng được niêm phong (Ký hiệu M2) do Đ vứt bỏ khi bị bắt quả tang; thu trên người của Đ 1.500.000 đồng. Khám xét chỗ ở của Đ thu giữ 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc đỏ bên trong chứa chất rắn màu trắng được niêm phong (Ký hiệu M3) cùng một số vật chứng có liên quan.
Tại Kết luận giám định số 446 ngày 12/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây N kết luận: Mầu chất rắn bên trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh lục và mẫu chất rắn bên trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc đỏ được niêm phong (Ký hiệu M1), gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,0284 gam; mẫu chất rắn bên trong 05 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh lục được niêm phong (Ký hiệu M2), gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,2018 gam; mẫu chất rắn bên trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc đỏ được niêm phong (Ký hiệu M3), gửi đến giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,0463 gam.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 146/2021/HS-ST ngày 28-12-2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N đã xử:
1. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ) 10 (mười) N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08 tháng 4 N 2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1. Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
Tiền Việt Nam 1.500.000 (một triệu N trăm nghìn) đồng.
Một điện thoại di động Nokia 105 màu Đ đã qua sử dụng số Imei 354198100055775, bên trong có gắn sim số 0336033741.
2.2. Tuyên tịch thu, tiêu hủy: Một hủ nhựa hình trụ tròn có ghi chữ Avocado; hai kéo bằng kim loại; ba ống thủy tinh; một bộ dụng cụ sử dụng ma túy; một gói niêm phong ghi vụ số 446/KL-KTHS có dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây N, chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Thi Sỹ P, mẫu vật hoàn lại sau giám định có khối lượng 0,1471 gam.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03 tháng 01 N 2022 bị cáo Nguyễn Hữu Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: bị cáo bán ma túy nhiều lần, cho nhiều người thì bắt quả tang. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhung không xuất trình được những tình tiết giảm nhẹ mới. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm. Các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm là hợp pháp.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ) làm trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo:
[3.1] Về tội danh: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ được, kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: từ tháng 3 N 2021 đến ngày 08/4/2021 bị cáo Nguyễn Hữu Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Bùi Thanh Hùng 01 lần, Nguyễn Văn Tính 01 lần, ngày 08/4/2021 bán 0,0284 gam chất ma túy loại Heroine cho Đặng Văn Bảo và Trần Quang Trường thì bị bắt quả tang; thu giữ tổng khối lượng chất ma túy là 0,2765 gam loại Heroine. Như vậy, bị cáo bán ma túy nhiều lần, cho nhiều người. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Hữu Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp.
[3.2] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
[3.3] Về hình phạt: ngày 11/10/2001 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây N xử phạt 04 N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, bị cáo chưa chấp hành hình phạt bổ sung nên chưa được xóa án theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự năm 2015, nay lại thực hiện hành vi phạm do cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo thừa nhận bán ma túy cho Bảo và Trường vào ngày 08/4/2021, không thừa nhận bán ma túy cho Hùng và Tính, nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xử phạt bị cáo mức án 10 N tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội gây ra, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ và đúng pháp luật nên chấp nhận.
[5] Về án phí: do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 N 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Các quyết định của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ).
3. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số: 146/2021/HS-ST ngày 28-12-2021 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây N.
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ) 10 (Mười) N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08-4-2021.
4. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 N 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Hữu Đ (Đ) phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-PT
Số hiệu: | 32/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về