Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 31/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2024/HS-ST NGÀY 23/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2024; Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh D mở phiên tại trụ sở để xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2024/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2024/QĐXXST-HS ngày 09/4/2024 đối với bị cáo:

1. NGUYỄN VĂN T, sinh năm 1990.

Nơi đăng ký cư trú: Thôn D, xã N, huyện K, tỉnh D. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Trình độ văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Bố: Nguyễn Văn Kh (đã chết); Mẹ: Trần Thị T1, sinh năm 1968. Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ 2. Vợ: Vũ Thị Đ, sinh năm 1996; có 02 con: Lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 55/QĐ-XPHC ngày 03/8/2016, NGUYỄN VĂN T bị Công an huyện K phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tạm giữ từ ngày 14/12/2023, đến ngày 20/12/2023 áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện K, tỉnh D.

2. NGUYỄN VĂN TH, sinh năm 1990.

Nơi đăng ký cư trú: Thôn D, xã N, huyện K, tỉnh D. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Trình độ văn hoá:

9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Bố: Nguyễn Văn Kh (đã chết); Mẹ: Trần Thị T1, sinh năm 1968. Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ 3. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 126/QĐ-XPHC ngày 15/11/2018, NGUYỄN VĂN TH bị Công an huyện K phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc. Tạm giữ từ ngày 14/12/2023, đến ngày 20/12/2023 áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện K, tỉnh D.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức Ph.

(Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10 năm 2023, NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH (là hai anh em ruột ở chung nhà tại thôn D, xã N, huyện K, tỉnh D) cùng nhau thống nhất mua ma túy về sử dụng và nếu có người mua thì bán kiếm lời. T đi đến ki ốt của Trần Nam T2 trong chợ Kim Anh, địa chỉ: thôn Quyết Th, xã Kim Anh, huyện K, mua của T2 01 túi ma túy đá với giá 2.500.000 đồng đem về nhà chia vào các túi nilon nhỏ cất giấu trong phòng ngủ của mình; những ngày sau đó, T và Th lấy ma túy ra sử dụng dần, đến ngày 14/12/2024 chỉ còn lại 02 túi ma túy. Hồi 17 giờ 14 phút ngày 14/12/2024, khi Th đang đi làm thì nhận được điện thoại của Nguyễn Đức Ph, sinh năm 1999, trú tại: thôn T, xã L, huyện K gọi đến điện thoại di động Oppo F11 của Th hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá để sử dụng, Th đồng ý và nhắn tin cho Ph số tài khoản số 9710115656xxxx của Th mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội để Ph chuyển tiền mua ma túy cho Th. Sau đó, Th gọi điện đến điện thoại di động Galaxy A71 của T bảo T lát nữa có người đến mua 400.000 đồng ma túy đá, Th đã nhận tiền của người đó rồi, T đồng ý. Sau khi chuyển tiền mua ma túy cho Th xong, Ph đi đến cổng nhà Th thì gặp T, T đưa cho Ph 01 túi ma túy đá. Ph đem túi ma túy vừa mua được đến lô cốt thuộc thôn D, xã N, huyện K sử dụng hết.

Hồi 19 giờ cùng ngày, Th đang trên đường đi làm về thì lại nhận được điện thoại của Ph hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá để sử dụng, Th đồng ý. Khi về đến nhà, Th nói với T: “Cái thằng vừa rồi nó lại lấy năm trăm tiếp” rồi Th đi tắm. Lúc này, T hiểu ý Th nói là Ph mua thêm 500.000 đồng ma túy đá nữa. Khoảng 15 phút sau thì Ph đến cổng và nói với T: “Lấy năm trăm” và đưa cho T số tiền 500.000 đồng; T cầm tiền đi vào phòng ngủ để ở đầu giường rồi lấy túi ma túy đá đem ra đưa cho Ph. Sau đó Ph cầm túi ma túy đi đến lô cốt thuộc thôn D, xã N rồi sử dụng ma túy. Hồi 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi Ph đang sử dụng trái phép ma túy thì bị Công an phát hiện, Ph khai nhận đang sử dụng ma túy mua của T và Th. Lực lượng Công an thu giữ 01 vỏ túi nilon màu trắng bên trong còn bám dính chất tinh thể màu trắng; 01 tờ giấy bạc bên trên bề mặt còn bám dính chất màu trắng đục; 01 vỏ chai nước lọc bằng nhựa trên nắp chai gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng và 01 chiếc bật lửa gas.

Hồi 21 giờ ngày 14/12/2023, NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đầu thú hành vi phạm tội của mình như nêu trên, đồng thời giao nộp chiếc điện thoại di động Galaxy A71 và chiếc điện thoại di động Oppo F11 do T và Th sử dụng vào việc phạm tội, Th còn giao nộp số tiền 500.000 đồng bán ma túy cho Ph.

Tại bản Kết luận giám định số 11/KL-KTHS ngày 18/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D kết luận: Chất tinh thể màu trắng bám dính bên trong túi nilon màu trắng, được niêm phong trong phong bì gửi đến giám định, là ma túy loại Methamphetamine, lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng; Chất màu trắng đục bám dính bên trên bề mặt tờ giấy bạc, được niêm phong trong phong bì gửi đến giám định, là ma túy loại Methamphetamine, lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được khối lượng. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 tờ giấy bạc và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định trong niêm phong số 11/KL-KTHS.

Kết quả kiểm tra mẫu nước tiểu của Nguyễn Đức Ph ngày 14/12/2023 dương tính với ma túy loại Methamphetamine.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội NGUYỄN VĂN TH và NGUYỄN VĂN T đã đến Công an huyện K đầu thú và thừa nhận hành vi phạm tội.

Đối với chiếc điện thoại di động Ph sử dụng để liên lạc mua ma túy, sau đó Ph đã làm rơi mất, đến nay không thu giữ được; ngày 19/12/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K ra Lệnh phong toả số tiền 400.000 đồng có được do bán ma túy trong tài khoản số 9710115656xxxx của Th mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội. Đối với 01 chiếc bật lửa ga; 01 vỏ chai nước lọc bằng nhựa, trên nắp chai gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động Oppo F11; 01 chiếc điện thoại di động Galaxy A71 và vật chứng được hoàn lại sau giám định trong niêm phong số 11/KL-KTHS.

Trong vụ án này, về nguồn gốc số ma túy bán cho Ph, theo NGUYỄN VĂN T khai mua của Trần Nam T2 song T2 không thừa nhận, T2 khai không quen biết T và cũng không bán ma túy cho T. Tài liệu điều tra không đủ căn cứ xác định T2 có hành vi bán chất ma tuý cho T, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K không đặt ra việc xử lý đối với T2.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Nguyễn Đức Ph, Công an huyện K đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ- XPHC ngày 16/02/2024 đối với Phú.

Tại bản Cáo trạng số 25/CT - VKS ngày 01/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội như Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện K và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xem xét nhân thân cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo. Đề nghị: Tuyên bố bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đều phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt NGUYỄN VĂN T từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù; NGUYỄN VĂN TH từ 07 năm 03 tháng tù đến 07 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của cả 02 bị cáo đều tính từ ngày tạm giữ 14/12/2023.

- Hình phạt bổ sung: Do cả 02 bị cáo không có công việc, thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

- Vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu cho tiêu hủy: 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 tờ giấy bạc; 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được hoàn lại trong niêm phong số 11/KL-KTHS; 01 vỏ chai nước lọc bằng nhựa trên nắp chai gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 01 bật lửa gas màu đỏ.

+ Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 và 01 chiếc điện thoại di động GALAXY A71.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng do NGUYỄN VĂN TH giao nộp và số tiền 400.000 đồng trong tài khoản số 971011565xxxx tại Ngân hàng TMCP Quân đội.

- Các bị cáo đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện K; Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đều thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại quá trình điều tra và lời khai của người làm chứng. Tất cả những lời khai này đều phù hợp khách quan với những tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ căn cứ kết luận: Tại thôn D, xã N, huyện K, tỉnh D; vào khoảng hơn 17 giờ ngày 14/12/2023, NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH bán cho Nguyễn Đức Ph 01 túi ma túy loại Methamphetamine với số tiền 400.000 đồng, Ph đã sử dụng hết số ma túy này; sau đó, khoảng hơn 19 giờ cùng ngày, T và Th tiếp tục bán cho Ph 01 túi ma túy loại Methamphetamine với số tiền 500.000 đồng. Hồi 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi Ph đang sử dụng ma túy vừa mua được của T và Th thì bị phát hiện, thu giữ vật chứng. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh D đã truy tố bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá vị trí, vai trò; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Đây là vụ án có yếu tố đồng phạm, cả 02 bị cáo đều cố ý cùng thực hiện tội phạm, trong đó: NGUYỄN VĂN T là người trực tiếp đi mua ma túy để bán và là người trực tiếp bán ma túy cho Nguyễn Đức Ph nên giữ vai trò chính trong vụ án; NGUYỄN VĂN TH là người trực tiếp liên hệ với Ph để thực hiện giao dịch mua bán ma túy, sau đó bảo T giao ma túy cho Ph nên giữ vai trò đồng phạm thực hành tích cực.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện gây nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo đều là đối tượng sử dụng ma túy, nhân thân đều bị Cơ quan Công an xử phạt hành chính nên hiểu rõ tác hại của ma túy gây ra đối với xã hội cũng như sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật đối với loại tội phạm này; nhưng các bị cáo đã bất chấp, coi thường pháp luật, không những mua ma túy để sử dụng mà còn thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời; tiếp tay cho một tệ nạn xã hội nguy hiểm mà nhà nước và nhân dân ta đang tích cực đấu tranh, bài trừ. Do vậy cần xét xử vụ án nghiêm minh, áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và mang tính răn đe, phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Cả 02 bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa cả 02 bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; sau khi thực hiện hành vi phạm tội, cả 02 bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung: Do cả 02 bị cáo đều không có công việc, thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[6] Xử lý vật chứng:

+ Cơ quan giám định hoàn lại đối tượng giám định gồm: 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 tờ giấy bạc và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định trong niêm phong số 11/KL-KTHS; Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01 vỏ chai nước lọc bằng nhựa trên nắp chai gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 01 bật lửa gas màu đỏ. Đây là vật chứng thu giữ trong vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 thu giữ của NGUYỄN VĂN TH và 01 chiếc điện thoại di động GALAXY A71 thu giữ của NGUYỄN VĂN T; do các bị cáo sử dụng 02 chiếc điện thoại này làm phương tiện để liên hệ thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước.

+ Số tiền 500.000 đồng do NGUYỄN VĂN TH giao nộp và số tiền 400.000 đồng trong tài khoản số 971011565xxxx tại Ngân hàng TMCP Quân đội (Theo Lệnh phong tỏa tài khoản số 01/LPT-CSĐT ngày 19/12/2023 và Biên bản phong tỏa tài khoản ngày 21/12/2023) là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Hủy bỏ Lệnh phong tỏa tài khoản số 01/LPT-CSĐT ngày 19/12/2023 để đảm bảo thi hành án số tiền tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Án phí: Các bị cáo bị kết án nên đều phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 * Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm a, b khoản 1 Điều 47; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 130 ; Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên bố: Bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH đều phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng hình phạt chính: Xử phạt NGUYỄN VĂN T 07 năm 09 tháng tù; xử phạt NGUYỄN VĂN TH 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với cả 02 bị cáo đều tính từ ngày tạm giữ 14/12/2023.

* Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu cho tiêu hủy: 01 vỏ túi nilon màu trắng; 01 tờ giấy bạc; 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được hoàn lại trong niêm phong số 11/KL-KTHS; 01 vỏ chai nước lọc bằng nhựa trên nắp chai gắn 02 ống hút bằng nhựa màu trắng; 01 bật lửa gas màu đỏ.

+ Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 và 01 chiếc điện thoại di động GALAXY A71.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng.

(Số lượng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/4/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 400.000 đồng trong tài khoản số 971011565xxxx tại Ngân hàng TMCP Quân đội (Theo Lệnh phong tỏa tài khoản số 01/LPT-CSĐT ngày 19/12/2023 và Biên bản phong tỏa tài khoản ngày 21/12/2023).

Hủy bỏ Lệnh phong tỏa tài khoản số 01/LPT-CSĐT ngày 19/12/2023 để đảm bảo thi hành án số tiền tịch thu sung ngân sách nhà nước.

* Án phí: Các bị cáo NGUYỄN VĂN T và NGUYỄN VĂN TH mỗi bị cáo đều phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo. Đã báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 31/2024/HS-ST

Số hiệu:31/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về