TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 29/2024/HS-ST NGÀY 23/04/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2024/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2024 đối với:
- Bị cáo: Trần Văn L, sinh năm 1989 tại xã A, huyện B, tỉnh H; nơi cư trú: thôn Ph, xã A, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn L1 và bà Trần Thị Ng; có vợ là Quách Thị Kim A và 01 con; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: Ngày 23/02/2011, Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/01/2024, chuyển tạm giam từ ngày 27/01/2024 đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Gia T, sinh năm 1992; địa chỉ: thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 18/01/2024, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn M, xã Tr, huyện B, tổ công tác Công an huyện Bình Lục, tỉnh H phối hợp cùng Công an xã Tr, huyện B tuần tra phát hiện Trần Văn L đang có hành vi bán trái phép 01 gói ma tuý cho Lê Gia T với giá 200.000 đồng, L đã nhận của T số tiền 188.000 đồng (T nợ lại số tiền 12.000 đồng) và chưa kịp giao gói ma túy cho T thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Lúc này, L thả gói ma túy xuống đường ngay cạnh chỗ đứng nhưng Lực lượng Công an đã kịp thời phát hiện, thu giữ.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:
- Thu giữ tại nền đường ngay cạnh chỗ Trần Văn L đang đứng 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc mặt bên ngoài màu trắng, mặt bên trong màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục (nghi là ma tuý loại Heroine), được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01;
- Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Trần Văn L đang mặc số tiền 188.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 03 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02.
Quá trình điều tra, Trần Văn L khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/01/2024, L đi bộ từ nhà ở thôn Ph, xã A, huyện B để đến khu vực phường Th, thành phố Ph, tỉnh H tìm mua ma tuý loại Heroine về bán kiếm lời. Khi L đi bộ được một đoạn thì gặp một người nam thanh niên không quen biết đang đi xe máy một mình thì L xin đi nhờ người này lên khu vực phường Th thì người này đồng ý. Khi đến nơi, L xuống xe còn người nam thanh niên đi đâu lý không rõ. L tiếp tục đi bộ một đoạn thì L gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng một mình dáng giống người nghiện ma túy nên L lại gần và hỏi: “Anh ơi, có Heroine không để cho em hai trăm nghìn”, người đàn ông trả lời: “Có đưa tiền đây” thì L đưa cho người đàn ông 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và nhận lại 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc mặt bên ngoài màu trắng, mặt bên trong màu vàng. Biết đây là gói Heroine cần mua nên L bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi xin đi nhờ xe của một người nam thanh niên không quen biết để về địa bàn huyện B. Khi về đến huyện B thì L xuống xe rồi đi bộ một mình đến khu vực nghĩa trang (L không biết địa chỉ cụ thể thuộc thôn, xã nào) thì L đi vào rồi mở gói ma túy vừa mua được rồi dùng xi lanh và ống nước cất đã chuẩn bị từ trước ra cho một ít ma túy bỏ vào trong xi lanh và cho ống nước cất đổ vào lắc đều lên để sử dụng bằng hình thức chích vào cơ thể. Sau khi sử dụng xong thì L vứt xi lanh và ống nước cất đi (L không nhớ vị trí cụ thể), số Heroine còn lại thì L gói lại và cầm ở trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ ra đường và tiếp tục xin đi nhờ xe của 01 người thanh niên không quen biết khác để đến thôn M, xã Tr, huyện B. Khi đến địa phận thôn M, xã Tr thì L xuống xe, còn người nam thanh niên đi đâu L không biết. L đi bộ một đoạn thì gặp Lê Gia T (là bạn quen từ trước), T hỏi: “Có hàng không để cho một cái hai trăm, ở đây tao có 188.000 đồng còn nợ số còn lại khi nào có thì tao gửi nốt” (ý T muốn hỏi L có ma tuý loại Heroine để bán không, có thì bán cho T 01 gói ma tuý với giá 200.000 đồng và T đưa trước 188.000 đồng và nợ lại 12.000 đồng) thì L đồng ý. Thấy vậy, T đưa cho L số tiền 188.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 03 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, L cầm số tiền trên bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc và đưa gói Heroine đang cầm trong lòng bàn tay trái ra cho T nhưng chưa kịp giao thì bị Lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Lúc này, do sợ hãi nên L đã thả gói Heroine trên xuống đường ngay cạnh chỗ L đứng thì bị Lực lượng Công an phát hiện thu giữ.
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn L tại thôn Ph, xã A, huyện B, tỉnh H nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.
Tại bản Kết luận giám định số 104/KL-KTHS ngày 24/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,052g (không phẩy không trăm năm mươi hai gam, loại Heroine (Heroin)”.
Cáo trạng số 33/CT-VKS-MT ngày 04/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh H truy tố Trần Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 188.000 đồng; tịch thu tiêu hủy vật chứng hoàn trả sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 18/01/2024, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh H; Trần Văn L đang bán trái phép 0,052 gam Heroine cho Lê Gia T với giá 200.000 đồng (L đã nhận của T số tiền 188.000 đồng, và cho nợ lại 12.000 đồng) nhưng chưa kịp đưa Heroine cho T thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Do vậy, hành vi của Trần Văn L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh H truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:
Về nhân thân: Mặc dù bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng có đặc điểm nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn L khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản thân bị cáo có thời gian tham gia và hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
- Hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục, tỉnh H thấy bị cáo không có tài sản riêng gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 188.000 đồng đã thu giữ là tiền L có được do bán ma túy mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với số ma túy Heroine hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:
- Về nguồn gốc số Heroine đã thu giữ: Quá trình điều tra, Trần Văn L khai số Heroine L có cất giữ để bán cho T là do L mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực phường Th, thành phố Ph, tỉnh H vào ngày 18/01/2024; L không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này. Ngoài lời khai của L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để điều tra làm rõ.
- Đối với ba người thanh niên đã cho Trần Văn L đi nhờ xe máy ngày 18/01/2024, L khai không quen biết và không biết tên, tuổi, địa chỉ, không để ý đặc điểm xe máy, biển kiểm soát của những người này; L chỉ gặp họ trên đường và xin đi nhờ xe máy. Ngoài lời khai của L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.
- Đối với Lê Gia T: Quá trình điều tra xác định, ngày 18/01/2024, T đưa cho Trần Văn L số tiền 188.000 đồng (nợ lại 12.000 đồng) để mua 01 gói ma túy loại Heroine của L nhưng L chưa đưa Heroine cho T thì đã bị lực lượng Công an bắt quả tang, khối lượng ma tuý loại Heroine thu giữ dưới 0,1 gam, bản thân T chưa có tiền án, tiền sự gì về hành vi liên quan đến ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục không có căn cứ để xử lý đối với T.
- Đối với việc Trần Văn L khai nhận: Ngày 18/01/2024, sau khi mua gói Heroine xong thì trên đường đi về thì L đã vào khu vực nghĩa trang (L không biết thuộc khu vực thôn, xã nào của huyện B) rồi dùng xi lanh và ống nước cất đã chuẩn bị từ trước cho một ít Heroine vừa mua được bỏ vào rồi chích vào cơ thể sử dụng, sau đó L đã vứt xi lanh và ống nước cất đi không nhớ vị trí cụ thể. Ngoài lời khai của Trần Văn L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để truy tìm, thu giữ, xử lý.
[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn L 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/01/2024.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 188.000đ (Một trăm tám mươi tám nghìn đồng). Tịch thu tiêu hủy số Heroine hoàn trả sau giám định trong 01 phong bì niêm phong, có số 104/KTHS.
(Tình trạng vật chứng được xác định theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/4/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh H cùng Ủy nhiệm chi ngày 05/4/2024 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục, tỉnh H).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 29/2024/HS-ST
Số hiệu: | 29/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về