Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 279/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 279/2023/HS-PT NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19/4/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 230/2023/HSPT ngày 02/3/2023 do có kháng cáo của bị cáo Bùi Anh A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2022/HS-ST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

* Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Anh A, tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/11/1981 tại Quảng Trị;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Khu phố 3, phường 4, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp trước khi bị khởi tố: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; con ông: Bùi Xuân A1 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị A2 sinh năm 1946; gia đình có 05 người con, bị cáo là con thứ tư; vợ: Hoàng Thị A3, sinh năm 1982 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008;

Tiền án, tiền sự: Ngày 16/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện CL, tỉnh Quảng Trị xử phạt 18 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” tại Bản án số 31/2019/HSST; ngày 25/9/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Nhân thân: Ngày 28/7/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị xử phạt 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 73/HSST.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2022 cho đến nay (ở vụ án khác); có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị A4, Luật sư Văn phòng Luật sư AP, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

* Ngoài ra trong vụ án còn có: Các bị cáo Phan Lê Thị A5, Nguyễn Hoàng A6, Trần Văn A7; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Kim A8 và ông Lê Văn A9, không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 0 giờ 05 phút ngày 14/01/2022, tại phòng 205 khách sạn HA thuộc tổ dân phố TP, phường KT, thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển và Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hà Tĩnh chủ trì phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang Phan Lê Thị A5 (sinh năm 1982) trú tại khu phố 7, phường 5, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị; Nguyễn Hoàng A6 (sinh năm 1989) trú tại thôn TL, xã CT, huyện CL, tỉnh Quảng Trị và Trần Văn A7 (sinh năm 1997) trú tại tổ dân phố 12, phường BL, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Bình đang có hành vi mua bán 01 túi ni lông màu vàng, bên trong có 24 gói ni lông màu xanh và 06 gói ni lông màu hồng, bên trong các gói ni lông màu xanh và màu hồng đều chứa các viên nén màu hồng (nghi là ma túy). Ngoài ra, lực lượng chức năng còn phát hiện, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Trần Văn A7 có 01 gói ni lông màu trắng bên trong chứa các viên nén màu hồng. Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số 58/GĐMT-PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Các viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Trần Văn A7 (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 620 gam; các viên nén màu xanh thu giữ khi bắt quả tang Trần Văn A7 (ký hiệu M1) gửi giám định không phải là ma túy, có khối lượng 6,18 gam; các viên nén màu hồng thu giữ trong túi quần phía trước bên trái Trần Văn A7 (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 4,8 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 61/GĐMT-PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Các viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu WY thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoàng A6 (ký hiệu N1) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 11,7138 gam; các viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu WY thu giữ trên bàn thờ trong phòng khách nhà đối tượng Nguyễn Hoàng A6 đang ở (ký hiệu N2) gửi giám định là ma túy, là Methamphetamine, có khối lượng 0,9432 gam.

Kết quả điều tra xác định: Thông qua mối quan hệ xã hội, Trần Văn A7 quen biết với một người phụ nữ tên A9 quê ở huyện DC, tỉnh Nghệ An. Ngày 10/01/2022, người phụ nữ tên A9 sử dụng số điện thoại 0945628078 gọi điện đặt vấn đề nhờ A7 mua hộ một tấm hồng phiến đưa ra Quảng Bình. Sau đó, Trần Văn A7 gọi điện thoại cho Phan Lê Thị A5 (tên thường gọi Ty, là người A7 quen biết trước đó khoảng 01 tháng) hỏi có ai bán ma túy không để mua. Một lúc sau Phan Lê Thị A5 gọi điện thoại lại thông báo cho A7 biết là đã tìm được người bán ma túy với giá 100.000.000 đồng một tấm hồng phiến. Trần Văn A7 gọi điện thoại lại cho A9 trao đổi đã tìm được người bán, một tấm hồng phiến đưa ra Quảng Bình giao giá 100.000.000 đồng, A9 đồng ý và hẹn sẽ liên lạc lại với A7 sau.

Đến ngày 11/01/2022, A9 tiếp tục gọi điện cho A7 bảo ở Hà Tĩnh đang có điểm cách ly Covid nên đi lại khó khăn, đồng thời bảo A7 đưa hồng phiến ra tại thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh giao nhận, Trần Văn A7 gọi điện thoại cho A5 và hỏi bên mua muốn đưa hồng phiến ra thị xã KA, Hà Tĩnh giao, A5 thông báo cho A7 là nếu đưa ra thị xã KA thì giá phải là 120.000.000 đồng. Trần Văn A7 gọi điện thoại trao đổi với A9 nếu đưa ra thị xã KA giao thì giá phải 120.000.000 đồng nên A9 nói với A7 đi ra thị xã KA cho A9 gặp bên bán nói chuyện cụ thể. Sau đó, Trần Văn A7 bắt xe taxi đi từ Quảng Bình gặp A9 và chồng của A9 tên là A10 tại khách sạn HA ở tổ dân phố TP, phường KT, thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh. Tại đây, Trần Văn A7 lấy máy điện thoại của người tên A10 gọi điện thoại cho A5 rồi đưa máy cho A10 nói chuyện với A5, A7 nghe được A10 và A5 thống nhất nội dung mua bán ma túy với nhau là A10 sẽ lấy của A5 02 tấm hồng phiến với giá 240.000.000 triệu đồng, A5 đưa ma túy ra tại thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh giao cho A10. Sau khi nói chuyện điện thoại với A5 xong, A10 nói với Trần Văn A7 là A10 về để chuẩn bị tiền, vài hôm nữa sẽ liên lạc lại với A7.

Ngày 12/01/2022, A10 gọi điện thoại trao đổi với Trần Văn A7 là A10 đã chuẩn bị đủ tiền, nhờ A7 nói với A5 chuẩn bị hồng phiến vài ngày nữa A10 sẽ vào thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh lấy hàng. Đến sáng ngày 13/01/2022, A10 gọi điện thoại nói với Trần Văn A7 bảo ngày mai bận đi cưới nên nhờ A7 gọi điện cho chị A5 xem có đưa hàng ra tại thị xã KA giao luôn được không, giao hàng sẽ giao tiền luôn, nên A7 gọi điện thoại nói với A5 là A10 muốn lấy hàng ngày hôm nay, đưa hàng ra thị xã KA giao, giao hàng sẽ giao tiền luôn.

Do trước đó khoảng 2-3 tháng, Phan Lê Thị A5 có quen biết với Bùi Anh A biết A có bán hồng phiến nên Phan Lê Thị A5 gọi điện thoại từ số 0702303913 của A5 đến số điện thoại 0902605023 của Bùi Anh A, A5 hỏi A có hồng phiến không bán cho A5 02 tấm; Bùi Anh A đồng ý bán cho Phan Lê Thị A5 02 tấm hồng phiến với giá mỗi tấm là 100.000.000 triệu đồng, A5 phải đặt cọc trước cho A từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và bảo A5 đi ra Hà Tĩnh gặp khách bàn bạc trước, hồng phiến sẽ có người của A đưa ra giao sau. Sau khi liên hệ mua được hồng phiến từ Bùi Anh A, Phan Lê Thị A5 gọi điện thoại cho Trần Văn A7 và rủ A7 cùng đi ra Hà Tĩnh gặp vợ chồng A10, A9 để bàn bạc việc mua bán ma túy. Trần Văn A7 đồng ý và nói A5 đi qua thành phố ĐH, tỉnh Quảng Bình đón A7. Sau đó, Phan Lê Thị A5 bắt taxi từ thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị đi ra thành phố ĐH, tỉnh Quảng Bình đón Trần Văn A7 cùng ra khách sạn HA ở tổ dân phố TP, phường KT thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh để gặp vợ chồng A10, A9. Trước khi đi, Trần Văn A7 mang theo 01 túi ni lông trắng chứa hồng phiến mà A7 mua của một người đàn ông ở thành phố ĐH, tỉnh Quảng Bình trước đó để sử dụng. Khi đến khách sạn HA, Phan Lê Thị A5 và Trần Văn A7 vào lấy phòng 205 để chờ vợ chồng A10, A9 đến bàn bạc. Một lúc sau, vợ chồng A10, A9 đi vào phòng 205, tại đây A10 lấy tiền cho A5 và A7 xem rồi A10 nói với A5 là A10 muốn lấy 02 tấm hồng phiến, đưa ra thị xã KA giao, giao hàng sẽ giao tiền luôn. Phan Lê Thị A5 nói lại với A10 là lấy 02 tấm hồng phiến phải đặt cọc trước 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, A10 không đồng ý đặt cọc tiền và nói với A5 khi nào giao hàng thì A10 sẽ giao đủ tiền luôn. Do A10 không đồng ý chuyển tiền đặt cọc trước để mua ma túy nên Phan Lê Thị A5 đã đến ngân hàng Công thương ở gần khách sạn chuyển số tiền 20.000.000 đồng vào số tài khoản 8888654965778 ngân hàng Mbbank mang tên Lê Thị Kim A8 mà trước đó Bùi Anh A đã gửi số tài khoản và yêu cầu A5 chuyển tiền đặt cọc mua ma túy cho A. Sau khi biết Phan Lê Thị A5 đã chuyển khoản số tiền 20.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng của chị Lê Thị Kim A8 (chị A8 là người yêu của A) thì Bùi Anh A sử dụng số điện thoại 0902605023 gọi đến số điện thoại 0977812374 của Nguyễn Hoàng A6 và bảo lên chỗ KS gặp anh A11 nhận túi đồ đưa ra Hà Tĩnh A, Nguyễn Hoàng A6 điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu đỏ đi đến thị trấn KS, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị để lấy ma túy cho A. Khi đi đến thị trấn KS, Nguyễn Hoàng A6 gọi điện thoại vào số 0344857100 của người đàn ông tên A11 mà trước đó A đã nhắn tin cho A6 và hỏi người tên A11 địa điểm nhận ma túy ở đâu. Người đàn ông tên A11 hẹn Nguyễn Hoàng A6 đến gặp tại cầu KS, tại đây A6 được một người đàn ông đi xe máy đến đưa cho một túi ni lông màu vàng. Nguyễn Hoàng A6 cầm túi ni lông màu vàng biết đó là hồng phiến nên đưa về nhà cất giữ và gọi điện nói với A biết nhận được túi đồ rồi, và hỏi A ra giao cho ai; A nói lại với A6 là đưa ra thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh giao cho một người phụ nữ, cứ đi ra đó trước A sẽ nhắn số điện thoại của người này cho A6 sau, A hứa sẽ trả tiền công cho A6 là 5.000.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Hoàng A6 gọi điện thoại thuê anh Lê Văn A9 là lái xe của hãng SunTaxi đã quen biết trước đó chở A6 đi ra thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh. Trên đường đi, Bùi Anh A nhắn tin cho A6 số điện thoại 0702303913 của Phan Lê Thị A5 và gọi điện thoại nói với A6 bảo đến nơi gọi để giao hàng, giao xong nhớ lấy 75.000.000 đồng từ người này cho A. Khi đi qua hầm ĐN, Nguyễn Hoàng A6 gọi điện thoại vào số 0702303913 của Phan Lê Thị A5 bảo mình là em của A, đồng thời hỏi A5 nhận đồ ở đâu để giao, A5 bảo A6 đưa đến khách sạn HA sẽ có người đón ở cổng nhận nên A6 nói anh Lê Văn A9 điều khiển xe chở A6 đến khách sạn HA. Phan Lê Thị A5 sau khi nhận được điện thoại của A6 thì A5 đi bộ xuống cổng khách sạn đứng đợi để nhận ma túy. Khi xe taxi đi đến khách sạn HA, Nguyễn Hoàng A6 nhìn thấy Phan Lê Thị A5 đang đứng chờ ở cổng nên A6 xuống xe và lấy túi ni lông màu vàng đựng hồng phiến cho vào bên trong túi ni lông màu trắng đưa cho A5 và yêu cầu A5 trả tiền; A5 nhận ma túy xong nói lại với A6 để khách kiểm tra đã xong sẽ đưa tiền xuống sau. Lúc này, Phan Lê Thị A5 gọi điện thoại nói Trần Văn A7 đi xuống cổng khách sạn lấy hàng đưa lên cho vợ chồng A10, A9 kiểm tra. Trần Văn A7 đi xuống cổng khách sạn, A5 cầm túi ni lông màu trắng vừa nhận từ A6 đưa cho A7 và nói với A7 đưa cho vợ chồng A10, A9 xem hàng (hồng phiến) xong thì lấy tiền đưa xuống cho A5. Trần Văn A7 cầm túi ni lông màu trắng bên trọng đựng hồng phiến đưa lên phòng 205 thì không thấy vợ chồng A10, A9 ở đâu nên A7 để túi ni lông màu trắng ở trên giường ngủ. Đến 0 giờ 05 phút ngày 14/01/2022, lực lượng chức năng vào kiểm tra hành chính phát hiện ma túy nên tiến hành bắt giữ Trần Văn A7; Phan Lê Thị A5 cũng bị lực lượng chức năng bắt giữ tại khu vực sân khách sạn HA. Khi lực lượng chức năng đang bắt giữ A5 thì Nguyễn Hoàng A6 đã lên xe taxi của Lê Văn A9 bỏ chạy theo hướng vào Quảng Bình. Lực lượng chức năng đã cử một tổ công tác đuổi theo xe taxi trên, khi đến địa phận tỉnh Quảng Bình thì đuổi kịp và yêu cầu Nguyễn Hoàng A6 cùng anh Lê Văn A9 lái xe ta xi quay lại phòng 205, khách sạn HA để làm việc.

A9 hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoàng A6 tại thôn TL, xã CT, huyện CL, tỉnh Quảng Trị vào lúc 13 giờ 00 phút ngày 14/01/2022, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển đã phát hiện, thu giữ cạnh giá gỗ bên cạnh đệm ngủ 01 hộp nhựa Xylitol màu trắng xanh, bên trong có chứa 13 ống nhựa hình trụ dài 08cm, bên trong mỗi ống nhựa hình trụ có chứa 10 viên nén màu hồng là Methamphetamine có khối lượng 11,7138 gam và phát hiện thu giữ trên bề mặt bàn thờ 01 ống nhựa hình trụ dài 10cm, bên trong ống nhựa có chứa 11 viên nén màu hồng là Methamphetamine có khối lượng 0,9432 gam. Nguyễn Hoàng A6 khai nhận số ma túy này A6 mua của một người đàn ông không quen biết ở thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị trước đó khoảng 01 tuần rồi đưa về cất giữ tại chỗ ở của A6 để sử dụng dần.

Với nội dung trên tại Bản án sơ thẩm số: 74/2022/HS-ST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh tỉnh Hà Tĩnh tuyên bố bị cáo Bùi Anh A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điển h khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 55; Điều 56; Điều 58; Điều 104 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Anh A tù chung thân. Tổng hợp với Bản án số 73, ngày 28/7/2922 của Tòa án nhân dân thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là tù chung thân và phạt tiền 20.000.000 đồng.

Ngoài ra Bản án còn xử phạt các bị cáo khác trong vụ án từ mức án 20 năm đến tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/11/2022 bị cáo Bùi Anh A có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, nhưng với mức hình phạt như bản án sơ thẩm là quá nghiêm khắc, bị cáo rất ân hận nên đã khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 5.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính; bố, mẹ bị cáo đều là người có công với cách mạng, nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xét xử đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nhưng với khối lượng chất ma túy là rất lớn nên xử bị cáo tù chung thân là có căn cứ, tại phiên tòa phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới nên không có căn cứ để xem xét, chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Không có ý kiến gì tranh luận về tội danh, khung hình phạt; nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến vai trò của bị cáo trong vụ án là đồng phạm, bị cáo Bùi Anh A với bị cáo A5 là ngang nhau nhưng bị cáo A5 chỉ bị xử 20 năm tù, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải; nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Bùi Anh A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của Phan Lê Thị A5, Nguyễn Hoàng A6 cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đặc biệt là biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 13/01/2022 Bùi Anh A đã bán cho Phan Lê Thị A5 01 túi ma túy với giá là 100.000.000đ, sau khi thống nhất giá cả, địa điểm giao nhận ma túy; Bùi Anh A đã điện thoại bảo Nguyễn Hoàng A6 mang ma túy ra thị xã KA giao cho Phan Lê Thị A5 để Phan Lê Thị A5 bán cho người khác; khoảng 0 giờ 05 phút ngày 14/01/2022 khi Nguyễn Hoàng A6, Phan Lê Thị A5 và Trần Văn A7 đang thực hiện việc giao nhận ma túy tại phòng 205, khách sạn HA thuộc tổ dân phố TP, phường KT, thị xã KA, tỉnh Hà Tĩnh thì bị phát hiện bắt giữ khối lượng ma túy được xác định là 620 gam Methamphetamine. Hành vi đó của Bùi Anh A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội danh trên theo Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo tham gia mua bán với tổng khối lượng là 620 gam Methamphetamine, nên cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử bị cáo theo điểm b khoản 4 điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Anh A, Hội đồng xét xử thấy: Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất rất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng khối lượng ma tuý bị cáo mua bán, đã phân hóa đúng vai trò của từng bị cáo trong vụ án; cũng như đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bi cáo, như: Bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm; bị cáo có đơn trình bày và tại phiên tòa sơ thẩm đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện nộp số tiền 5.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính, bị cáo có bố, mẹ là người có công với cách mạng; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử và xử phạt bằng hình phạt tù nghiêm khắc chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, trong quá trình đang điều tra bị cáo lại phạm tội tiếp và cùng nhóm tội về ma túy nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức hình phạt tù chung thân là có căn cứ, phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tình tiết gì mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Anh A, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 74/2022/HS-ST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh; tuyên bố bị cáo Bùi Anh A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 55; Điều 56; Điều 58; Điều 104 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Anh A tù chung thân. Tổng hợp với hình phạt 16 tháng tù tại Bản án số 73 ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam, ngày 13/3/2022 và phạt bổ sung 20.000.000 đồng.

Về án phí: Bị cáo Bùi Anh A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm .

Các quyết định khác của Bản án số 74/2022/HS-ST ngày 25/11/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 279/2023/HS-PT

Số hiệu:279/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về