Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 276/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 276/2021/HS-PT NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06/7/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 365/2021/TLPT-HS ngày 04/5/2021 do có kháng cáo của bị cáo Hứa Minh A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

* Bị cáo có kháng cáo:

Hứa Minh A, tên gọi khác: Không, sinh ngày 05/5/1978 tại Tuyên Quang; Nơi ĐKHKTT: Thôn 7, xã B, huyện B1, tỉnh Tuyên Quang; chỗ ở hiện nay: Tổ 11, phường B2, thành phố B3, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Long C và con bà Chẩu Thị C1 (đều đã chết); có vợ Nguyễn Thị C2, sinh năm 1979 và 03 con; con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2019; bị cáo A sống như vợ chồng với chị Phùng Thị C3 (đã chết ngày 13/02/2020), có 01 con chung sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Năm 2009 bị Tòa án nhân dân Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số: 57/2009/HSST ngày 08/7/2009; ngày 17/5/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2019, bị cáo Hứa Minh A đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho nhiều đối tượng, cụ thể:

Khoảng tháng 7/2018, Ngô Văn A1 gọi điện cho A hỏi mua ma túy, bị cáo A đồng ý bán và hẹn A1 đến chỗ A ở để lấy ma túy, khoảng 14 giờ cùng ngày, A1 đi xe ô tô đến nơi ở của A và đã cho A số tiền 1.000.000đ để mua ma túy; A cầm tiền và hẹn A1 đến khu vực đường tránh lũ, thuộc xã B4, huyện B1, tỉnh Tuyên Quang để giao ma túy. Sau đó A đi xe máy đến điểm hẹn đưa cho A1 01 gói nilon màu trắng trong chứa ma túy qua kính lái xe ô tô, Ngô Văn A1 mang về sử dụng hết.

Khoảng 15 giờ ngày đầu tháng 8/2018, A1 gọi điện cho A hỏi mua ma túy, A đồng ý nên A1 đi xe ô tô đến nơi ở của A đưa cho A 1.000.000đ, A đưa cho A1 01 gói nilon màu trắng trong chứa chất ma túy, A1 đưa về sử dụng hết.

Khoảng 10 giờ một ngày đầu tháng 9/2018, sau khi A1 gọi điện cho A hỏi mua ma túy, A1 đi xe ô tô đến nơi ở của A đưa cho A số tiền 1.000.000đ, A cầm tiền và đưa cho A1 01 gói nilon màu trắng trong chứa ma túy, A1 mang về sử dụng hết.

Khoảng 12 giờ một ngày giữa tháng 01/2019, A1 gọi điện cho A để hỏi mua ma túy với giá 2.000.000đ, A đồng ý nên A1 đến nơi ở của A đưa cho A số tiền 2.000.000đ, A cầm tiền và vào phòng ngủ lấy ra đưa cho A1 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa ma túy, A1 đưa số ma túy đó về sử dụng.

Khoảng đầu tháng 7/2019, Nông Văn A2 gọi điện cho A hỏi mua 04 hộp ma túy và bảo A mang lên Hà Giang cho A2, A đồng ý nên đã mang 04 gói (20gam) cùng với Phùng Thị C3 mang lên thành phố Hà Giang bán cho A2, A điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 22A-044.19 đi đến gần thành phố Hà Giang thì gọi điện cho A2; khi đến gần cổng chào thành phố Hà Giang thì A dừng xe bên đường thì thấy A2 đứng gần đó, A xuống xe lấy trong túi quần số ma túy mang theo để ở chân cột mốc và yêu cầu A2 đưa tiền, A2 chỉ có 6.000.000đ đưa cho A nên bảo nợ A số tiền còn lại là 14.000.000đ; sau khi nhận tiền A bảo A2 tự đến chỗ cột mốc lấy ma túy và A quay xe đi về Tuyên Quang, A2 mang số ma túy đó về sử dụng cho bản thân.

Khoảng đầu tháng 6/2019, Đỗ Hương A3 đến nhà A chơi, tại đây A3 đặt vấn đề mua 1.000.000đ tiền ma túy, A nhận tiền sau đó đi ra vườn nhà lấy 01 gói nilon bên trong chứa ma túy đưa cho A3, A3 mang số ma túy về sử dụng cho bản thân.

Khoảng 16 giờ một ngày đầy tháng 8/2019, A đi Hà Giang, trên đường đi A gọi điện cho A3 và gặp A3 cùng Ma Quốc A4 tại nhà trọ của A4 ở km 38 thuộc tổ dân phố Tân Quang, thị trấn B6, huyện B5, tỉnh Tuyên Quang. Khi cả ba đang ngồi uống nước thì A4 hỏi A có ma túy không để bán cho A4 500.000đ, A đồng ý nên cầm tiền và lấy trong túi ra đưa cho A4 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa ma túy, sau đó A đi về, số ma túy trên A4 và A3 cùng sử dụng.

Quá trình điều tra bị cáo A khai số ma túy trên bị cáo đã mua của một người không quen biết ở huyện B7, tỉnh Lào Cai, mua của người tên Thiết ở Mộc Châu, Sơn La...

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST, ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã quyết định: Áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hứa Minh A 09 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn quyết định truy thu số tiền thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/3/2021 bị cáo Hứa Minh A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị cáo trình bày: Bị cáo có phạm tội nhưng chưa đến mức như bản án sơ thẩm quy kết, bị cáo có bán ma túy cho A2 và A1, nhưng không bán ma túy cho A3 và A4 mà chỉ góp tiền mua ma túy về để cùng sử dụng; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo hiện ốm đau, có hoàn cảnh khó khăn đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi mà mẹ của bé đã chết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật; khi xét xử bị cáo cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên xử phạt bị cáo mức án như cấp sơ thẩm là có căn cứ; tại cấp phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết gì mới, nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù bị cáo Hứa Minh A không thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; bị cáo chỉ thừa nhận có bán ma túy cho Nông Văn A2 và Ngô Văn A1. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của những người làm chứng trong suốt quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm đều thể hiện bị cáo Hứa Minh A đã bán ma túy cho những người, gồm: Đỗ Hương A3 , Ma Quốc A4, Nông Văn A2 và Ngô Văn A1; trong đó việc bị cáo bán ma túy cho Ma Quốc A4 có sự chứng kiến của chị A3; Ngô Văn A1 mua ma túy của bị cáo sau đó chia thành nhiều gói giấu ở trong người và ở nhà để sử dụng dần, nên sau đó Ngô Văn A1 đã bị bắt giữ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, số ma túy thu giữ của Ngô Văn A1 phù hợp với số ma túy Ngô Văn A1 khai đã mua của bị cáo; những người đã mua ma túy của bị cáo đã mô tả đúng địa điểm, loại tiền dùng để mua, bán ma túy. Đặc biệt, đối chiếu lời khai của những người làm chứng thấy phù hợp với lời khai của bị cáo trong suốt quá trình điều tra và những lời khai này đều thể hiện do bị cáo tự nguyện khai báo. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến khoảng tháng 7/2019, bị cáo Hứa Minh A đã nhiều lần bán ma túy cho 04 người, thu lợi được số tiền từ việc bán ma túy là 12.500.000đ. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội danh trên theo Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do bị cáo đã từng bị xét xử và xử phạt 08 năm tù về cùng loại tội phạm chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm và bị cáo thực hiện tội phạm nhiều lần, nên cấp sơ thẩm quy kết bị cáo theo điểm b, q khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hứa Minh A, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên thì bị cáo không bị oan, khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự; đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như: Bị cáo có bố đẻ là ông Hứa Long C được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi do mẹ cháu đã mất. Tuy nhiên, đây đều là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hứa Minh A, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang; áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251; khoản 2 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hứa Minh A 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Hứa Minh A phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 08/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 276/2021/HS-PT

Số hiệu:276/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về