Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 257/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 257/2021/HS-PT NGÀY 02/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 11 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 247/2021/TLPT-HS ngày 20/7/2021 đối với bị cáo Cao Quốc T. Do bị cáo kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 242/2021/HSST ngày 19/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo kháng cáo:

Cao Quốc T , sinh năm 1983, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Sửa xe máy; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Tấn M (Đã chết) và con bà Ngô Thị Kim N (Đã chết); có vợ là Lương Hoàng Mỹ L, sinh năm 1987 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2008. Hiện ở tại đường A, phường N, thành phố G, tỉnh Đăk Nông; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo hiện đang bị tạm giam từ ngày 09/4/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Quốc T là đối tượng nghiện chất ma túy loại Methamphetamine (hay còn gọi là mà túy đá). Quá trình sử dụng ma túy, T đã quen biết với một người nam 1 giới tên gọi là “N Già” (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy ở khu vực đường vành đai thành phố B. Vào trưa ngày 08/4/2021, T dùng một điện thoại hiệu OPPO, model:A53, màu xanh, IMEI: 861438050503259, IMEI 2: 8614380505003242, gắn sim số 09449644748 gọi cho “N Già” số điện thoại là 0905331337 hỏi mua “một hộp năm” ma túy đá. Mục đích vừa để sử dụng vừa để bán kiếm lời. N Già đồng ý và hẹn T đến khu vực đường M giao với đường P. Sau đó, T mượn xe mô tô của một người bạn xã hội (Chưa xác định được nhân thân, lai lịch) rồi điều khiển xe đi đến điểm hẹn. Khi đi đến nơi, T đưa số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) cho N Già thì N Già bán cho T một gói nylon chứa ma túy đá. T mang gói ma túy đá về nhà và lấy ra một ít ma túy bỏ vào “nỏ” sử dụng cho bản thân. Số ma túy còn lại trong gói nylon T cất giấu trong tủ đứng ở phòng ngủ của T. Mục đích sử dụng và bán lại cho người khác để kiếm lời.

Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 09/4/2021, Nguyễn Văn C, sinh năm 1989, là bạn ngoài xã hội của T đến xin ngủ nhờ. T đồng ý và cho C vào nhà ngủ chung phòng với T nhưng T không cho C biết việc T có cất giấu ma túy. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường C đến kiểm tra thì T lấy gói nylon chứa ma túy cất giấu trong tủ đứng ở phòng ngủ của T đem ra tự nguyện giao nộp. Cơ quan công an đã tiến hành thu giữ 01(một) gói nylon chứa chất rắng dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong một phong bì theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Kết luận giám định số 431/GĐMT-PC09 ngày 16/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong phong bì thư gửi giám định, có khối lượng 4,0011 gam, loại: Methamphetamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số:242/2021/HSST ngày 19/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuộtđã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Cao Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cao Quốc T 05 năm 06 tháng tù.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết địnhvề xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo chobị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/8/2021 bị cáo Cao Quốc T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáovề tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm quyết định mức hình phạt 05 năm 06 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cao Quốc T 05 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/4/2021.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Cao Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Cao Quốc T là người nghiện ma túy, loại Methamphetamine, để có tiền tiêu sài và ma túy sử dụng nên T nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho con nghiện để kiếm lời nên vào ngày 09/4/2021, Cao Quốc T có hành vi cất giấu chất ma túy để bán thì bị Công an phường C, thành phố B phát hiện bắt quả tang, thu giữ 4,0011 gam chất ma túy loại Methamphetamine. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Cao Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 05 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Cao Quốc T là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy đều thuộc sự độc quyền quản lý của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự, thủ tục nghiêm ngặt; mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc nhưng vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Quốc T- Giữ nguyên bản án sơ hình sự thẩm số 242/2021/HSST ngày 19tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk,về hình phạt.

[2] Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Cao Quốc T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 09/4/2021.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khon 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Cao Quốc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 257/2021/HS-PT

Số hiệu:257/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về