Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 253/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 253/2022/HS-PT NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 599/2021/TLPT-HS ngày 23/12/2021 đối với bị cáo Nguyễn Tam Tr do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 226/2021/HS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

NGUYỄN TAM TR, tên gọi khác: Không, giới tính: Nam; sinh ngày 30/4/1976; nơi sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 92/11 đường 44 TĐH, Phường 16, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà không số, khu 81 căn, đường ĐT14, Tổ 22, ấp TĐ, xã LT, huyện CG, tỉnh Long An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Chạy xe ba gác; con ông Nguyễn Anh T (chết) và bà Trương Thị B (chết); vợ: Trần Thị Mỹ Nh (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2014; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 30/6/2015, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2017, nhưng chưa thi hành nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng và tiền nộp sung công quỹ nhà nước 5.000.000 đồng; tạm giam ngày 03/12/2020; (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tam Tr theo yêu cầu của Tòa án:

Luật sư Huỳnh Trọng Ngh của Công ty Luật TNHH HĐP thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh; (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 14 giờ 00 phút ngày 03/12/2020, tại góc ngã ba đường QTL và NVL thuộc Ấp 3, xã APT, huyện BC, Tp.Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện BC phối hợp với Công an xã APT bắt quả tang Nguyễn Tam Tr có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần phía trước của Tr 01 gói nylon bên trong chứa ma túy ở thể rắn, khối lượng 52,8630gam loại Methamphetamine, 01 điện thoại di động hiệu Oppo, 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số 59L2-621.02.

Toàn bộ ma túy thu giữ của Tr đã được trưng cầu giám định, kết quả thể hiện tại Bản kết luận giám định số 2043/KLGĐ-H ngày 11/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Lúc 19 giờ 15 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện BC khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tr tại nhà không số, khu 81 căn, đường ĐT14, ấp TĐ, xã LT, huyện CG, tỉnh Long An, thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Quá trình điều tra, Tr khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 03/12/2020, một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) đến nhà của Tr hỏi mua nửa lạng ma túy đá, Tr đồng ý bán với giá 16.000.000 đồng và hẹn giao dịch tại chợ BC.

Sau đó, Tr điều khiển xe gắn máy biển số 59L2-621.02 đến chung cư Terra Rosa, Ấp 5, xã LP, huyện BC, Tp.Hồ Chí Minh, gặp người phụ nữ (không rõ lai lịch) mua nửa lạng ma túy đá với giá 15.000.000 đồng. Tuy nhiên, do chưa có tiền trả nên Tr đã cầm cố xe gắn máy đang sử dụng cho người phụ nữ bán ma túy bằng hình thức đưa thẻ giữ xe cho người phụ nữ. Sau khi mua ma túy, Tr thuê xe đi đến địa điểm hẹn giao ma túy cho H thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ gói ma túy. Tr khai lần đầu tiên thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Trong quá trình điều tra, Tr thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như lời khai ban đầu, cho rằng số ma túy bị thu giữ không biết do đâu mà có.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 226/2021/HS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tam Tr 17 (mười bảy) năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2020.

- Phạt bị cáo Nguyễn Tam Tr số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/11/2021, bị cáo Nguyễn Tam Tr có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, trong phần xét hỏi bị cáo Nguyễn Tam Tr thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin miễn hình phạt bổ sung mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định và hợp lệ, đề nghị được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm đúng như chủ tọa phiên tòa tóm tắt. Quan điểm về nội dung vụ án: quá trình điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã tuyên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án như vật chứng thu giữ, các hoạt động điều tra khác, do đó cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Bị cáo có kháng cáo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Huỳnh Trọng Ngh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tam Tr không tranh luận với Kiểm sát viên về điểm, khoản và điều luật áp dụng đối với bị cáo, chỉ nêu lên các tình tiết giảm nhẹ như sau: Bị cáo có trình độ văn hóa thấp nên nhận thức của bị cáo đối với pháp luật kém, do vậy lời khai của bị cáo có mâu thuẫn nhau, ban đầu thừa nhận tội, sau đó thay đổi lời khai là do sợ chịu hình phạt nặng, đây chỉ làm tâm lý bất ổn của bị cáo. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo và khai báo trung thực để hỗ trợ cơ quan điều tra vụ án nhanh chóng, do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục và phòng chống tội phạm. Về hình phạt bổ sung, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn số tiền 10.000.000 đồng là hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định và hợp lệ nên được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở chứng minh: Ngày 03/12/2020, tại ngã ba đường QTL và NVL thuộc Ấp 3, xã APT, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Tam Tr bị bắt quả tang khi có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy ở thể rắn, khối lượng 52,8630 gam loại Methamphetamine, nhằm mục đích để bán cho người khác.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Tam Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, không sai.

[2.2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương vì Methamphetamine và các chất ma túy khác là một trong những chất có tác hại lớn đối với sức khỏe người sử dụng và tác động xấu đến xã hội, là mầm móng phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự nguy hiểm khác. Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Trong vụ án này, xuất phát từ động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy để thu lợi bất chính do bị cáo muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động vất vả. Hành vi này của bị cáo là trái pháp luật, số lượng ma túy bị cáo mua bán có khối lượng 52,8630 gam, là tội phạm có tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đó là “Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam”.

Bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm, có 01 tiền án cùng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cho thấy bị cáo chưa có tính hướng thiện, cải tạo chưa đạt, cần xét xử bị cáo mức án tù tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét và áp dụng hình phạt cho bị cáo đầy đủ, tương xứng nên không có căn cứ xem xét kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải đã đáp ứng đủ điều kiện để được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 như lời bào chữa của Luật sư, tuy nhiên, như nhận định nêu trên, bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm về tội phạm ma túy hiện nay đang diễn biến phức tạp, gây nhiều hệ lụy xấu đến xã hội nên cần phải nghiêm trị. Hội đồng xét xử chỉ ghi nhận thái độ của bị cáo nhưng không xem xét giảm nhẹ hình phạt để đảm bảo thời gian bị cáo được giáo dục, cải tạo đúng đắn tương xứng với tội danh mà bị cáo đang bị xét xử.

[2.3] Xét kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Luật sư về việc miễn hình phạt bổ sung là số tiền 10.000.000 đồng: Do tại cấp sơ thẩm, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nên không chứng minh được tiền thu lợi bất chính của bị cáo nên không có căn cứ buộc các bị cáo giao nộp mà cần phải phạt tiền bị cáo theo quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 10.000.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó yêu cầu được miễn hình phạt bổ sung là số tiền 10.000.000 đồng của bị cáo và Luật sư là không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về vật chứng, xử lý vật chứng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tam Tr. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 226/2021/HS-ST ngày 16/11/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

Căn cứ điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tam Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tam Tr 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2020.

- Phạt bị cáo Nguyễn Tam Tr số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

2/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

3/ Án phí: Bị cáo Nguyễn Tam Tr phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 253/2022/HS-PT

Số hiệu:253/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về