TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MY, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN SỐ 25/2023/HS-ST NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 6 N 2023, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai, Tòa án nhân dân huyện MY, tỉnh Gia lai xét xử sơ thẩm lưu động C khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2023/HSST, ngày 05 tháng 5 N 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2023/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 6 N 2023 đối với các bị cáo:
1. Đặng Văn H - Sinh ngày: 10/3/1976 tại tỉnh Cao Bằng;
Nơi thường trú: Xóm B, thị trấn N, huyện H, tỉnh Cao Bằng. Chỗ ở hiện nay: Làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai; Nghề nghiệp: Làm nông. Học vấn: 4/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn Đ, sinh N: 1942 và bà Lục Thị É, sinh N: 1952. Bị cáo có vợ là Nông Thị H, sinh N 1981, có 03 người con, con lớn nhất sinh N 2000, con nhỏ nhất sinh N 2014.
Tiền sự: Không.
Tiền án: 01 tiền án, cụ thể: Ngày 20/3/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk xử phạt 08 N tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 120/2003/HSST, chưa được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2022 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
2. Lương Văn C - Sinh ngày 08/10/1991 tại tỉnh Đăk Lăk;
Nơi cư trú: Làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai; Nghề nghiệp: Làm nông.
Nghề nghiệp: Làm nông; Học vấn: 6/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn K, sinh N: 1969 và bà Vi Thị T, Sinh N: 1969. Bị cáo có vợ là Hoàng Thị L, sinh N 1996, có 03 con, con lớn nhất sinh N 2015, con nhỏ nhất sinh N 2020.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2022 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Hoàng Thị L, sinh N 1996, trú tại: Làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai. Có mặt.
- Người phiên dịch: Ông Hoàng Văn S – Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai là người phiên dịch tiếng Tày. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 7/2022, Đặng Văn H đến thuê nhà của ông Hoàng Anh Ph (sinh N 1980) ở tại làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai để ở làm nông và mua bán củi. Tại đây, Đặng Văn H có quen biết với Lương Văn C, nhà của C cách nhà của H thuê của ông Phương khoảng 250m.
Do biết Đặng Văn H mua bán trái phép chất ma túy nên vào khoảng 10 giờ ngày 10/9/2022, Lương Văn C đến nhà Đặng Văn H để mua 03 gói ma túy loại heroin với giá 600.000 đồng được bọc bằng giấy bạc về nhà để sử dụng và bán lại cho người khác có nhu cầu. Khoảng 18 giờ cùng ngày, C nhận được điện thoại của Vương Trần C với nội dung hỏi mua 02 gói ma túy loại heroin để về sử dụng, C nghe vậy thì đồng ý và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 81E1 - X đến điểm hẹn để giao ma túy cho Vương Trần C. Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 10/9/2022, khi Lương Văn C đi đến đoạn đường thuộc làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai, thì bị C an huyện MY phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong người của Lương Văn C 02 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất ma túy loại heroin, có khối lượng 0,0778 gam.
Trên cơ sở lời khai nhận của Lương Văn C, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện MY đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Văn H, quá trình khám xét phát hiện và thu giữ 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất ma túy loại heroin, khối lượng 0,0353 gam, H đang cất giấu trong nhà của H, đồng thời Cơ quan điều tra thu giữ 07 mảnh giấy bạc có cùng kích thước (3x4)cm, được bỏ trong bao thuốc lá và 03 kim tiêm.
Quá trình điều tra mở rộng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện MY xác định các đối tượng sử dụng ma túy trên địa bàn mua ma túy của Đặng Văn H và Lương Văn C về sử dụng cụ thể:
Đối với Vương Trần C, tại Cơ quan điều tra C khai nhận: C đã mua ma túy loại heroin của Đặng Văn H (tại nhà của H) 03 lần, trong tháng 9/2022, cụ thể vào các ngày 07/9, 08/9 và 09/9/2022 tại nhà của H. Ngoài ra, C còn khai nhận cũng mua ma túy của Lương Văn C nhiều lần, quá trình điều tra bị can Lương Văn C thừa nhận có bán ma túy cho C nhiều lần vào các ngày 05/9/2022; ngày 09/9/2022 và ngày 10/9/2022, trên đường C đi giao ma túy cho C thì bị C an huyện MY phát hiện bắt quả tang. Kết quả xét nghiệm chất ma túy: Vương Trần C dương tính với ma túy, C khai nhận mua ma túy về nhà để sử dụng.
Đối với Trần Đức Lu, tại Cơ quan điều tra Lu khai nhận: Lu đã mua ma túy của Đặng Văn H (tại nhà H) khoảng 07 lần (bắt đầu từ khoảng tháng 8/2022, trung bình khoảng 02 ngày mua một lần) và 01 lần mua của Lương Văn C (tại nhà C) vào ngày 07/9/2022. Kết quả xét nghiệm chất ma túy: Trần Đức Lu dương tính với ma túy, Lu khai nhận mua ma túy về nhà để sử dụng.
Đối với Dương Văn L’, tại Cơ quan điều tra L’ khai nhận: L’ đã mua ma túy của Đặng Văn H nhiều lần, trong thời gian từ khoảng đầu tháng 9/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L’ đã hỏi mua ma túy của H và được H đồng ý bán từ 05 đến 06 lần và nhiều lần cùng Nguyễn Văn N góp tiền đến nhà Đặng Văn H để mua ma túy sử dụng. Khi đến mua ma túy, N đứng ngoài chờ, L’ vào gặp H để mua ma túy. Sau khi mua được ma túy thì L’ và N ra vườn mỳ gần nhà H để sử dụng, kim tiêm và nước do L’ và N tự chuẩn bị.
Đối với Nguyễn Văn N, tại Cơ quan điều tra N khai nhận: Từ khoảng đầu tháng 9/2022, N góp tiền với Dương Văn L’ và cùng Dương Văn L’ nhiều lần đến nhà của Đặng Văn H để mua ma túy loại heroin, khi đến mua ma túy thì N đứng ngoài chờ để L’ vào gặp H mua ma túy. Sau khi mua được ma túy thì L’ và N ra vườn mỳ gần nhà H để sử dụng, kim tiêm và nước do L’ và N tự chuẩn bị. Và vào ngày 08/9/2022, Nguyễn Văn N đã trực tiếp đến nhà của H để mua ma túy với giá 200.000 đồng rồi đến bãi mỳ gần đó để sử dụng.
Quá trình điều tra Lương Văn C khai nhận đã mua ma túy của Đặng Văn H 04 lần, cụ thể: Từ ngày 05/9/2022 đến ngày 10/9/2022, C mua ma túy của Đặng Văn H 04 lần, mỗi lần 03 gói heroin, mỗi gói 200.000 đồng, mỗi gói ma túy C mua của H về C lấy ra một ít để sử dụng, sau đó gói lại để bán cho người khác có nhu cầu, C đã bán lại cho nhiều người khác nhau, gồm: Bán cho Vương Trần C (tức T) 03 lần (lần thứ ba ngày 10/9/2022 trên đường C đi giao ma túy cho C thì bị bắt giữ và thu giữ trong người 02 gói ma túy), bán 01 lần cho Trần Đức Lu.
Trong quá trình điều tra Đặng Văn H khai nhận đã mua ma túy tại ngã ba Nam Đạt (thuộc thôn T, xã Đ, huyện MY) rồi sau đó mang về nhà cất, vào ngày 07/9/2022 đã chia thành 02 phần, một phần đã bán cho Dương Văn L’ với số tiền 170.000 đồng, phần còn lại thu giữ tại nhà của H, H khai sử dụng để bán cho người khác có nhu cầu, H không thừa nhận đã mua bán trái phép chất ma túy như lời khai của Lương Văn C, Vương Trần C, Trần Đức Lu, Dương Văn L’ và Nguyễn Văn N.
Kết quả xét nghiệm chất ma túy trong người của Đặng Văn H và Lương Văn C ngày 10/9/2022 là dương tính với ma túy.
Theo Kết luận giám định số 612/KL-KTHS ngày 19/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai, kết luận:
+ Toàn bộ chất màu trắng đục, dạng cục, bột trong 02 gói giấy bạc trong phong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng 0,0778 gam. (02 gói ma túy thu giữ của Lương Văn C).
Theo Kết luận giám định số 635/KL-KTHS ngày 19/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai, kết luận:
+ Chất màu trắng dạng cục, bột trong 01 gói giấy bạc trong phong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng 0,0353 gam. (01 gói ma túy thu giữ của Đặng Văn H).
Đối với vật chứng thu giữ quá trình điều tra xác định: Đối với 02 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Lương Văn C, sau giám định còn 0,0596 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai là vật chứng của vụ án nên chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định.
- Đối với 01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Đặng Văn H, sau giám định còn 0,0308 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai là vật chứng của vụ án nên chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 53, màu tím, kiểu máy RMX1925 đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0359495X; 01 xe mô tô BKS 81E1 - X đã qua sử dụng thu giữ của Lương Văn C có liên quan đến vụ án nên chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định.
- Đối với 01 vỏ bao thuốc lá, trên vỏ có ghi chữ GOLDEN EAGLE, bên trong có 07 tờ giấy bạc cùng kích thước (03x04)cm; 03 kim tiêm chưa qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung loại A71, màu xanh đen đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số 0846106X thu giữ của Đặng Văn H có liên quan đến vụ án nên chuyển theo hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định.
Đối với số tiền 12.500.000 đồng thu giữ của Lương Văn C và số tiền 16.890.000 đồng thu giữ của Đặng Văn H, sau khi thu giữ Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện MY đã niêm phong và gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện MY để chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKS, ngày 04 tháng 5 N 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện MY, tỉnh Gia lai đã truy tố bị cáo Đặng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Lương Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MY đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Đề nghị áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đặng Văn H:
Xử phạt bị cáo Đặng Văn H từ 09 N đến 10 N tù.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lương Văn C:
Xử phạt bị cáo Lương Văn C từ 07 N đến 08 N tù.
Áp dụng Khoản 5 Điều 251của Bộ luật Hình sự Xử phạt bổ sung bị cáo Đặng Văn H số tiền 20.000.000 đồng để nộp vào Ngân sách Nhà nước Xử phạt bổ sung bị cáo Lương Văn C số tiền 15.000.000 đồng để nộp vào Ngân sách Nhà nước Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu, tiêu hủy:
- 02 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Lương Văn C, sau giám định còn 0,0596 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói.
- 01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Đặng Văn H, sau giám định còn 0,0308 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói.
- 01 vỏ bao thuốc lá, trên vỏ có ghi chữ GOLDEN EAGLE, bên trong có 07 tờ giấy bạc cùng kích thước (03x04)cm;
- 03 kim tiêm chưa qua sử dụng;
- 01 sim điện thoại số 0359495X;
- 01sim điện thoại số 0846106X.
Tịch thu, sung quỹ Nhà nước:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 53, màu tím, kiểu máy RMX1925 đã qua sử dụng.
- 01 xe mô tô BKS 81E1 - X nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirus, số máy E3T6E544640, số khung RLCUE1740MY080039, màu sơn: Đen xám bị bể vỡ phần bửng, đã qua sử dụng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung loại A71, màu xanh đen đã qua sử dụng.
Trả lại số tiền 12.500.000 đồng thu giữ của Lương Văn C và số tiền 16.890.000 đồng thu giữ của Đặng Văn H không chứng minh được là tiền các bị cáo thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có. Nhưng tuyên tiếp tục giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.
Các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C đều thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng, các bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, gia đình có hoàn cảnh khó khăn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện MY, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện MY, tỉnh Gia lai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Xét tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng nêu. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 8/2022 đến ngày 10/9/2022 tại nhà ở của gia đình các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C thuộc làng D, xã K, huyện MY, tỉnh Gia lai; bị cáo Đặng Văn H đã có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều đối tượng sử dụng ma túy trên địa bàn và bán cho Lương Văn C 04 lần. Bị cáo Lương Văn C sau khi mua được ma túy từ Đặng Văn H đã sử dụng và bán lại cho nhiều đối tượng khác nhau trong khoảng thời gian từ ngày 05/9/2022 đến ngày 10/9/2022, trong lúc C đi giao ma túy (bán) cho Vương Trần C thì bị bắt quả tang thu giữ trong người bị cáo C 02 gói ma túy loại heroin có khối lượng 0,0778 gam để nhằm mục đích bán cho Vương Trần C; ngày 10/9/2022, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Văn H thu giữ trong nhà Đặng Văn H 01 gói ma túy loại heroin có khối lượng 0,0353 gam, nhằm mục đích để bán cho người khác sử dụng.
Các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức được ma túy là chất Nhà nước cấm mua bán nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà các bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện MY, tỉnh Gia lai truy tố các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Chất ma túy là chất gây nghiện, có tính chất kích thích thần kinh, việc sử dụng trái phép chất ma túy không những gây tác hại lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt là người chưa thành niên, mà còn là nguyên nhân gây phát sinh các loại tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đặng Văn H có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (loại tội phạm rất nghiêm trọng) chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lương Văn C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lương Văn C đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đặng Văn H quá trình điều tra chưa thành khẩn khai báo nhưng tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo Lương Văn C đã tích cực phối hợp với cơ quan điều tra trong việc điều tra, làm rõ hành vi phạm tội của đồng phạm là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự
[5] Về hình phạt: Các bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là phù hợp, đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo để sung vào Ngân sách Nhà nước.
[7] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Đối với Hoàng Thị L là vợ của Lương Văn C, việc C sử dụng nhà ở của gia đình làm địa điểm để bán trái phép chất ma túy thì chị L không biết nên không có cơ sở để xử lý về hình sự đối với chị L là có căn cứ.
[8] Đối với các đối tượng:
Đối với Vương Trần C, sau khi mua ma túy của Đặng Văn H và Lương Văn C về với mục đích để sử dụng, C đã sử dụng ma túy nhiều lần tại nhà ở của gia đình. Hành vi trên của C không cấu thành tội phạm nên C an huyện MY đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.
Đối với Trần Đức Lu, sau khi mua ma túy của Đặng Văn H và Lương Văn C về với mục đích để sử dụng, Lu đã sử dụng ma túy nhiều lần tại nhà ở của gia đình. Hành vi trên của Lu không cấu thành tội phạm nên C an huyện MY đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.
Đối với Dương Văn L’ là đối tượng sử dụng ma túy đã lâu, sau khi mua ma túy của Đặng Văn H về với mục đích để sử dụng, L’ đã sử dụng ma túy nhiều lần tại khu vực L’ cư trú. Hành vi trên của L’ không cấu thành tội phạm, L’ không có nơi cư trú ổn định nên C an huyện MY đã lập hồ sơ đề nghị và Tòa án nhân dân huyện MY đã ra quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc theo quy định là có căn cứ.
Đối với Nguyễn Văn N là đối tượng sử dụng ma túy đã lâu, sau khi mua ma túy của Đặng Văn H về với mục đích để sử dụng, N đã sử dụng ma túy nhiều lần tại khu vực N cư trú. Hành vi trên của N không cấu thành tội phạm, N không có nơi cư trú ổn định nên C an huyện MY đã lập hồ sơ đề nghị và Tòa án nhân dân huyện MY đã ra quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc theo quy định là có căn cứ.
Đối với ông Hoàng Anh P là người đã cho bị cáo Đặng Văn H thuê nhà để ở, sau khi cho thuê nhà ông Phương đã giao nhà cho H để sử dụng, việc H sử dụng nhà ở được thuê làm địa điểm để bán trái phép chất ma túy thì ông Phương không biết nên không có cơ sở để xử lý về hình sự đối với ông Phương.
Đối với đối tượng cung cấp (bán) ma túy cho Đặng Văn H, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, L’i lịch, chỗ ở nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện MY tiếp tục điều tra, làm rõ khi nào xác định được sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.
[9] Về vật chứng vụ án: Tịch thu, tiêu hủy:
- 02 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Lương Văn C, sau giám định còn 0,0596 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai. 01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Đặng Văn H, sau giám định còn 0,0308 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai. 01 vỏ bao thuốc lá, trên vỏ có ghi chữ GOLDEN EAGLE, bên trong có 07 tờ giấy bạc cùng kích thước (03x04)cm; 03 kim tiêm chưa qua sử dụng, 01sim điện thoại số 0359495X; 01sim điện thoại số 0846106X. Đây là C cụ mà các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
Tịch thu, sung quỹ Nhà nước những là C cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 53, màu tím, kiểu máy RMX1925 đã qua sử dụng.
- 01 xe mô tô BKS 81E1 - X nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirus, số máy E3T6E544640, số khung RLCUE1740MY080039, màu sơn: Đen xám bị bể vỡ phần bửng, đã qua sử dụng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung loại A71, màu xanh đen đã qua sử dụng.
Trả lại số tiền 12.500.000 đồng thu giữ của Lương Văn C và số tiền 16.890.000 đồng thu giữ của Đặng Văn H không chứng minh được là tiền thu lợi bất chính của các bị cáo có được từ việc phạm tội mà có. Nhưng tuyên tiếp tục giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.
[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b, q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đặng Văn H:
Xử phạt bị cáo Đặng Văn H 9 (Chín) N 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 10/9/2022).
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, t khoản 1 Điều 51 và Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lương Văn C:
Xử phạt bị cáo Lương Văn C 7 (Bảy) N 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 10/9/2022).
Áp dụng khoản 5 Điều 251của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Đặng Văn H số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Xử phạt bị cáo Lương Văn C số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy:
- 02 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Lương Văn C, sau giám định còn 0,0596 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai.
01 gói giấy bạc, bên trong chứa chất ma túy loại heroin thu giữ của Đặng Văn H, sau giám định còn 0,0308 gam đã được niêm phong theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan điều tra C an huyện MY và Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Gia lai.
- 01 vỏ bao thuốc lá, trên vỏ có ghi chữ GOLDEN EAGLE, bên trong có 07 tờ giấy bạc cùng kích thước (03x04)cm; 03 kim tiêm chưa qua sử dụng,
- 01sim điện thoại số 0359495X;
- 01sim điện thoại số 0846106X.
- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước những là C cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 53, màu tím, kiểu máy RMX1925 đã qua sử dụng.
- 01 xe mô tô BKS 81E1 - X nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirus, số máy E3T6E544640, số khung RLCUE1740MY080039, màu sơn: Đen xám bị bể vỡ phần bửng, đã qua sử dụng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung loại A71, màu xanh đen đã qua sử dụng.
Trả lại số tiền 12.500.000 đồng thu giữ của Lương Văn C và số tiền 16.890.000 đồng thu giữ của Đặng Văn H không chứng minh được là tiền thu lợi bất chính của các bị cáo có được từ việc phạm tội mà có. Nhưng tuyên tiếp tục giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.
(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 30/5/2023 giữa C an huyện MY với Chi cục Thi hành án dân sự huyện MY).
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án:
Buộc các bị cáo Đặng Văn H và Lương Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/6/2023) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia lai xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 25/2023/HS-ST
Số hiệu: | 25/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về