Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 242/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 242/2023/HS-PT NGÀY 26/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 111/2023/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Chuk. và bị cáo Och. do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 551/2022/HSST ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Chuk. (tên gọi khác: Y), sinh năm 1988 tại Nigeria; nơi cư trú tại Nigeria: số 41 đường M., quận O., thành phố On., bang A., Nigeria; nơi cư trú tại Việt Nam: Phòng 15.09B Chung cư LT, 198A ML, phường BTĐA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán quần áo; trình độ văn hóa (học vấn): Học hết cấp 3 tại Nigeria; dân tộc: Igbo; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Nigeria; con ông Ig. và con bà Jus.; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2020, (có mặt);

+ Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Chuk.: Ông Lê Văn L – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

2. Họ và tên: Och., sinh năm 1969 tại Nigeria; nơi cư trú tại Nigeria: số 26 đường Owa, thành phố E., bang En., Nigeria; nơi cư trú tại Việt Nam: số 25/12/1 BQL, Phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán quần áo; trình độ văn hóa (học vấn): Học hết cấp 3 tại Nigeria; dân tộc: Igbo; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Nigeria; con ông Ch. (đã chết) và con bà Mag.; có vợ: Lỷ Mộc K, sinh năm 1985 (là bị cáo trong cùng vụ án) và có 02 người con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2020, (có mặt);

+ Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Och.: Ông Đoàn Trọng Ng – Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).

- Người phiên dịch: Bà Nguyễn Lê Thúy Ph, sinh năm 1999, Phiên dịch viên Tiếng Anh thuộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch thuật KQ, (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Lỷ Mộc K nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16h50’ ngày 17/9/2020, tại trước nhà số 683 đường QT, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện, bắt quả tang Lỷ Mộc K có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán cho người khác, thu giữ trong cốp xe máy biển số 59G1- 300.93 do Lỷ Mộc K đang điều khiển: 03 túi nylon dạng túi trà màu xanh chứa tinh thể rắn không màu (qua giám định là ma túy có khối lượng 2.927,47 gam, loại Methamphetamine).

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lỷ Mộc K tại nhà số 25/12/1 đường BQL, Phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh và lúc này có chồng của K là Och. đang ở nhà, thu giữ trong cốp xe SH biển số 59X1-590.70:

01 gói nylon màu xanh lá in hình ấm trà, chứa tinh thể rắn không màu (qua giám định là ma túy có khối lượng 994,60 gam, loại Methamphetamine).

Số ma túy thu giữ của Lỷ Mộc K và Och. đã được giám định tại bản Kết luận giám định số 1629/KLGĐ-H ngày 24/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Bút lục 130).

Mở rộng điều tra, vào khoảng 22h30’ cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Chuk. (là người bán ma túy cho vợ chồng Lỷ Mộc K) tại Phòng 15.09B Chung cư LT, số 198A ML, phường BTĐA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ 01 xe máy hiệu Airblade biển số 59Y1-134.01 và 02 điện thoại di động.

Quá trình điều tra, Och. và Lỷ Mộc K khai nhận: Trong khoảng thời gian 05 - 06 năm sinh sống tại Việt Nam, Och. quen biết với Chuk. (thường gọi là Y) và được Chuk. cho Och. biết có nguồn ma túy để khi nào cần thì liên hệ.

Đến đầu tháng 8/2020, Och. giới thiệu cho một người tên B (không rõ lai lịch) biết là Och. có nguồn ma túy, đồng thời cho B số điện thoại 0934296771 để B liên lạc. Sau đó, Och. và vợ là Lỷ Mộc K đã 02 lần mua ma túy của Chuk. để bán lại cho Bi, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng 04 tuần trước khi bị bắt, B gọi điện cho Och. hỏi mua 02 kg ma túy đá (Methamphetamine) với giá 240.000.000đồng/kg, do không nói được nhiều Tiếng Việt nên Och. đã đưa máy cho Lỷ Mộc K nghe. Sau đó, Och. đã gọi đến số điện thoại 0394250133 của Chuk. đặt mua 02 kg ma túy đá với giá 235.000.000đồng/kg để bán lại cho Bi; Chuk. là người trực tiếp đem ma túy đến nhà số 25/12/1 đường BQL, Phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh giao cho Och.. Sau đó, Lỷ Mộc K đã đem số ma túy này đi giao cho B tại khu vực chợ GV rồi nhận 480.000.000 đồng về giao cho Och.. Theo thỏa thuận từ trước với Chuk. là sau khi bán được ma túy mới trả tiền, Och. đã trả cho Chuk. 470.000.000 đồng tiền mua ma túy, còn lại 10.000.000 đồng tiền lời Och. đưa cho K để sử dụng sinh hoạt trong gia đình.

- Lần thứ hai: Khoảng 13h30’ngày 17/9/2020, B gọi đến số điện thoại 0905239895 của Lỷ Mộc K hỏi mua 04 kg ma túy đá với giá 240.000.000đồng/kg, B yêu cầu giao trước 03 kg, còn 01 kg giao sau. Och. dùng tài khoản Whatsapp tên “PAPA TONY” với số điện thoại 0934296771 gọi đến tài khoản Whatsapp tên “Yer 3” với số điện thoại 0394250133 của Chuk., đặt mua 04kg ma túy đá với giá 235.000.000đồng/kg về bán lại cho Bi. Đến khoảng hơn 16h00’ cùng ngày, Chuk. tiếp tục đem 04 kg ma túy đến nhà số 25/12/1 đường BQL, Phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh để giao cho Och. và Lỷ Mộc K. Sau khi nhận ma túy từ Chuk., K lấy 01 kg ma túy cất giấu vào cốp xe SH màu trắng biển số 59X1- 590.70 để ở nhà; 03 kg ma túy còn lại K cho vào cốp xe máy biển số 59G1- 300.93 rồi điều khiển xe đi đến khu vực chợ GV giao cho B nhưng trên đường đi thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Quá trình điều tra, mặc dù Chuk. không thừa nhận việc đã bán ma túy cho vợ chồng Och.; tuy nhiên, căn cứ vào biên bản thu giữ vật chứng, biên bản nhận dạng, trích xuất dữ liệu camera, trích xuất dữ liệu điện thoại và lời khai của Och. và Lỷ Mộc K về việc mua bán ma túy với Chuk., là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra. Do đó, đủ cơ sở xác định Chuk. chính là người đã bán 04 gói ma túy, khối lượng 3.922,07gam Methamphetamine cho vợ chồng Och. và Lỷ Mộc K vào ngày 17/9/2020.

Đối với việc mua bán 02 kg ma túy đá giữa Chuk. với Och. và Lỷ Mộc K, ngoài lời khai của Och. và Lỷ Mộc K thì hiện Cơ quan điều tra chưa thu được chứng cứ nào khác nên không đủ cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự đối với Chuk., Och. và Lỷ Mộc K về khối lượng ma túy trong lần thực hiện hành vi này.

+ Vật chứng thu giữ của vụ án:

* Thu giữ của Lỷ Mộc K:

- 02 thùng giấy niêm phong số 1629/20 (G1, G2) bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số imei 1:

863944047757586, số imei 2: 863944047757849. Lỷ Mộc K khai dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Mobistar, số imei 1: 359755421107265, số imei 2: 359755421107265, Lỷ Mộc K khai dùng để liên lạc cá nhân; 02 cân điện tử.

- 01 xe gắn máy hiệu SH150 biển số 59S2-908.75 qua giám định số khung, số máy bị mài đục không xác định được số nguyên thủy. Lỷ Mộc K khai xe máy trên K cầm cố của một người (không rõ lai lịch). Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm người có liên quan nhưng hiện chưa có ai liên hệ để giải quyết.

- 01 xe gắn máy hiệu SH150 biển số 59X1-590.70, qua xác minh biển số xe là giả, hiện xe do ông Đinh Quang Th, địa chỉ: 235B/30L1/A8 NVC, phường NCT, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đăng ký chủ sở hữu. Ông Th đã bỏ địa phương đi đâu không rõ nên không lấy được lời khai. Lỷ Mộc K khai xe máy trên là K cầm cố của một người (không rõ lai lịch). Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm người có liên quan đến xe máy trên nhưng hiện chưa có ai liên hệ để giải quyết.

- 01 xe gắn máy biển số 59G1-300.93, qua xác minh biển số xe là giả, còn xe do ông Dương Thành L1, địa chỉ: ấp BC, xã BT, huyện TB, tỉnh Đồng Tháp đăng kí chủ sở hữu. Ông L1 cho con gái là Dương Kim T xe máy trên. Đến khoảng tháng 10/2019, xe bị mất trộm tại phường LC, thành phố TĐ và chị T có trình báo với Cơ quan Công an nơi này. Lỷ Mộc K khai mua xe này của một người (không rõ lai lịch), không nhớ thời gian và không làm thủ tục sang tên. Cơ quan điều tra đã bàn giao xe trên cho Công an thành phố TĐ xử lý theo qui định.

* Thu giữ của Och.: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số imei 1:

862208040107654, số imei 2: 862208040107647. Och. khai dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma túy.

* Thu giữ của Chuk.:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số imei 1: 358780103607037, số imei 2: 358781103607035; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số imei 1:

353155100506356, số imei 2: 353155100677272. Chuk. khai đều dùng để liên lạc cá nhân.

- 01 xe gắn máy hiệu AIR BLADE FI biển số 59Y1-134.01, qua xác minh xe do ông Nguyễn Tấn Q, địa chỉ: 101/12/21 ấp 4, xã ĐT, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh đăng ký chủ sở hữu. Ông Q khai đã bán xe máy trên cho một người tên H (không rõ lai lịch) và không làm thủ tục sang tên. Chuk. khai đã mua xe này của một người đàn ông Nigeria (không rõ lai lịch) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm người có liên quan đến xe máy trên nhưng hiện chưa có ai liên hệ để giải quyết.

Tại bản Cáo trạng số 61/CT-VKS-P1 ngày 08/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố để xét xử đối với các bị cáo Chuk., Och. và Lỷ Mộc K, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 551/2022/HSST ngày 29/11/2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 51, Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Chuk. Tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Chuk. 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước, 2. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Och. Tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Och. 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lỷ Mộc K tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời, phạt bổ sung bị cáo Lỷ Mộc K 20.000.000 (hai mươi triệu) nộp vào ngân sách nhà nước. Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 09/12/2022, bị cáo Chuk. và bị cáo Och. có đơn kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bị cáo Chuk. cho rằng bị cáo không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo kháng cáo kêu oan nên không đồng ý với quyết định về tội danh và hình phạt (bao gồm cả hình phạt tử hình và hình phạt bổ sung) của bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử lại.

+ Bị cáo Och. xác định yêu cầu kháng cáo của bị cáo là xin Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa quyết định của bản án sơ thẩm để cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt tử hình và hình phạt bổ sung.

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và phần xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, có đủ căn cứ xác định, cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử các bị cáo Chuk. và Och. về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, không oan cho các bị cáo.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với các bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, đủ đảm bảo răn đe, phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt đối với tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay. Các bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới đủ cơ sở để chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên các quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

Luật sư Lê Văn L bào chữa cho bị cáo Chuk. phát biểu:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Chuk. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo lại kháng cáo kêu oan. Quá trình tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã xem xét, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án làm rõ được hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” của bị cáo Chuk., nhưng bị cáo vẫn tiếp tục kháng cáo kêu oan nên để không làm xấu đi tình trạng của bị cáo, Luật sư không có ý kiến phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo về tội danh, mà đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét đến nhân thân của bị cáo là người nước ngoài, bất đồng về ngôn ngữ, để giảm nhẹ hình phạt tử hình và hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo Chuk. trình bày tự bào chữa:

Tòa án cấp sơ thẩm không có đủ bằng chứng để kết tội bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên bị cáo kháng cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa ra đủ các bằng chứng đã kết tội bị cáo.

Luật sư Đoàn Trọng Ng phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo Och.:

Về tội danh, Luật sư thống nhất như Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Och.. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Och., giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với các lý do như sau: Bị cáo là người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam nên không hiểu hết quy định của pháp luật Việt Nam; bị cáo có vợ cũng là bị cáo trong cùng vụ án này, bị cáo còn phải nuôi mẹ già và có 02 con nhỏ; bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải. Vật chứng là ma túy trong vụ án đã được Cơ quan điều tra thu giữ toàn bộ, chưa phát tán ra xã hội nên cũng giảm bớt được một phần tác hại. Thêm nữa, sau khi bị bắt, bị cáo Och. đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra khai ra những người đã mua bán trái phép ma túy với bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét áp dụng cho bị cáo Och. nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng cho bị cáo.

Với những tình tiết và lý do nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Och., cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật Việt Nam, không tuyên phạt bị cáo tử hình để bị cáo có cơ hội trở về với gia đình, vì gia đình, vợ con và mẹ già đang rất cần bị cáo được sống. Nếu được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận giảm nhẹ hình phạt, không tuyên phạt bị cáo tử hình thì bị cáo cam kết sẽ không tái phạm.

+ Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu đối đáp:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Chuk. cho rằng bị cáo không phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Och. tiếp tục khai nhận bị cáo Chuk. chính là người đã bán 04 gói ma túy, khối lượng 3.922,07gam Methamphetamine cho vợ chồng Och. và Lỷ Mộc K vào ngày 17/9/2020. Lời khai này của bị cáo Och. phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm biên bản thu giữ vật chứng, biên bản nhận dạng, trích xuất dữ liệu camera, trích xuất dữ liệu điện thoại và lời khai của Och. và Lỷ Mộc K tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm về việc mua bán ma túy với Chuk., trong đó đã có sự phù hợp về khối lượng và loại ma túy, giá tiền, thời gian, địa điểm giao nhận, phương thức thanh toán tiền mua bán ma túy và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra. Chính vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Chuk. và Och. phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan cho các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Och. đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo này, nhưng những lý do luật sư đưa ra là không đủ cơ sở để chấp nhận.

Đối với việc bị cáo Och. khai ra những đối tượng đã mua bán trái phép ma túy với bị cáo thì đây là sự thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và áp dụng trong tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không có cơ sở để chấp nhận quan điểm đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Och. về việc áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Och.. Vì vậy, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm giữ nguyên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Chuk. và Och., giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của bị cáo Chuk. và đơn kháng cáo của bị cáo Och. nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Xét kháng cáo của các bị cáo Chuk. và Och. như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án, các bị cáo đã được đảm bảo quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, được phiên dịch và được Luật sư bào chữa theo đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của các bị cáo.

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Chuk. thừa nhận, vào ngày 17/9/2020, bị cáo có đến nhà vợ chồng bị cáo Och., nhưng bị cáo đến không phải để thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, xét lời khai tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo Chuk. cho rằng, bị cáo đến nhà vợ chồng Och. là do trước đó bị cáo có nói với Och. là con đẻ của Och. không giống Och. nên giữa 02 (hai) bên đã xảy ra mâu thuẫn với nhau, nhưng 02 (hai) bên đã gặp nhau và giải quyết xong, nên Och. có điện thoại mời bị cáo đến nhà uống bia để bị cáo chính thức nói lời xin lỗi Och.; với lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm của bị cáo Chuk. cho rằng, bị cáo đến nhà vợ chồng Och. để giải quyết mâu thuẫn trong việc làm ăn, kinh doanh giữa bị cáo và vợ chồng bị cáo Och.; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, lời khai tại phiên tòa phúc thẩm và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm của bị cáo Chuk. về cùng một nội dung vấn đề như trên là mâu thuẫn với nhau, không phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án nên không có cơ sở để chấp nhận.

[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Chuk. kêu oan và cho rằng bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo; Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Och. tiếp tục khai nhận, vào ngày 17/9/2020, bị cáo Chuk. chính là người đã đến nhà vợ chồng Och. để bán 04 gói ma túy, khối lượng 3.922,07gam Methamphetamine cho vợ chồng Och. và Lỷ Mộc K. Xét lời khai nhận của bị cáo Och. tại phiên tòa phúc thẩm và lời khai nhận tội của bị cáo Och. và Lỷ Mộc K tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với nhau trong việc thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với bị cáo Chuk. (về khối lượng và loại ma túy, giá tiền, thời gian, địa điểm giao nhận và phương thức thanh toán tiền mua bán ma túy); phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét và các biên bản (tạm giữ đồ vật - tài liệu; niêm phong vật chứng; đối chất, nhận dạng), phù hợp với Kết luận giám định, các tài liệu trích xuất dữ liệu camera và dữ liệu điện thoại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở xác định:

[2.2.1] Trong thời gian sinh sống tại Việt Nam, Och. đã quen biết với Chuk. và được Chuk. cho biết có nguồn ma túy để khi nào Och. cần thì liên hệ, theo phương thức, sau khi Och. bán được ma túy mới trả tiền, số lượng ma túy mua bán theo yêu cầu đặt mua của bị cáo Och. và bị cáo Chuk. sẽ trực tiếp mang ma túy đến nhà giao cho Och..

[2.2.2] Vào ngày 17/9/2020, bị cáo Och. và vợ là Lỷ Mộc K đã liên hệ mua của bị cáo Chuk. 04kg ma túy đá được đựng trong 04 túi nylon dạng túi trà màu xanh với giá 235.000.000 đồng/kg để bán lại cho đối tượng tên B (không rõ lai lịch) với giá 240.000.000 đồng/kg để hưởng lợi. Theo đó, bị cáo Chuk. đã trực tiếp mang ma túy đến nhà giao cho Och. tại địa chỉ số 25/12/1 đường BQL, Phường 12, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, và Lỷ Mộc K là người liên hệ và mang ma túy đi bán cho đối tượng tên Bi.

Sau khi mua được ma túy, vào khoảng 16h50’ ngày 17/9/2020, khi bị cáo Lỷ Mộc K đang điều khiển xe gắn máy biển số 59G1- 300.93 mang 03 túi ma túy đã mua nêu trên đi bán cho đối tượng tên B thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng là ma túy có khối lượng 2.927,47 gam, loại Methamphetamine; tại trước nhà số 683 đường QT, Phường 11, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của các bị cáo Och. và Lỷ Mộc K, Cơ quan điều tra thu giữ 01 túi ma túy đá còn lại đang cất giấu để bán, có khối lượng 994,60 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng là ma túy của các bị cáo cất giấu trái phép để mua bán bị thu giữ (khi bị bắt quả tang và khi khám xét chỗ ở) đã được Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định và kết quả được thể hiện tại bản Kết luận giám định số 1629/KLGĐ-H ngày 24/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, có tổng khối lượng ma túy là 3.922,07 gam (2.927,47 gam + 994,60 gam), loại Methamphetamine (bút lục 130).

[2.2.3] Với khối lượng các chất ma túy ở thể rắn dùng để mua bán và hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Chuk. và Och. phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, không oan cho các bị cáo.

[3] Về hình phạt đối với các bị cáo Chuk. và Och..

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác; gây mất trật tự trị an xã hội. Với động cơ tư lợi bất chính, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, các bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật, tham gia mua bán trái phép chất ma túy để tiêu thụ, phát tán ra xã hội các chất ma túy tổng hợp ở thể rắn các loại với khối lượng đặc biệt lớn (gấp nhiều lần so với mức khởi điểm là 100 gam trở lên và ma túy khác ở thể rắn là 300 gam trở lên quy định tại điểm b khoản 4 của điều luật). Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo Chuk. và Och. cùng với mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt bị áp dụng, loại bỏ các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là tương xứng với tính chất và mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện trong vụ án, là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đủ đảm bảo tác dụng đấu tranh và phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt đối với tội phạm về ma túy trong tình hình hiện nay.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, điều kiện và hoàn cảnh phạm tội, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, cụ thể: các bị cáo Chuk. và Och. phạm tội lần đầu, về nhân thân chưa có tiền án, tiền sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với bị cáo Och. còn có hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế, hai con còn nhỏ, vợ là Lỷ Mộc K cũng là bị cáo trong cùng vụ án, sau khi phạm tội thành khẩn khai báo và thể hiện có sự ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Och. tại phiên tòa phúc thẩm đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Och.; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Việc bị cáo Och. khai ra những đối tượng đã mua bán trái phép ma túy với bị cáo thì đây là sự thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét và áp dụng trong tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm là không chấp nhận quan điểm đề nghị này của Luật sư.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Chuk. và Och. còn có kháng cáo đối với cả hình phạt bổ sung. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung đối với bị cáo Chuk. và bị cáo Och., mỗi bị cáo 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước, là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[5] Từ những chứng cứ và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến, quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Chuk. và không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Och., giữ nguyên quyết định về tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

[6] Những ý kiến, quan điểm đề nghị của các Luật sư bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Chuk. và Och. tại phiên tòa phúc thẩm là không phù hợp với phân tích và nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không được chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Chuk. và Och. phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1- Không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Chuk. và không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Och.; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 551/2022/HSST ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

1.1. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 51 và Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Chuk. (tên gọi khác: Y) Tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2020; tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Chuk. (tên gọi khác: Y) 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước, 1.2. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Och. Tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2020; tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Och. 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam.

2- Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Chuk. (tên gọi khác: Y) và Och., mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

3- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 26 tháng 4 năm 2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 242/2023/HS-PT

Số hiệu:242/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về