TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 240/2021/HSST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14/6/2021,tại trụ sở Tòa án nhân dân (TAND) thành phốThái Nguyên, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 248/ 2021/TLST- HS ngày20 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 233/202/ QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:
1.Nguyễn Văn H (không có tên gọi khác), sinh ngày 15 tháng 7 năm 1988, tại tỉnh Thái Nguyên;
Đăng ký hộ khẩu và ở: Tổ 13, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn : Lớp 07/12; nghề nghiệp: Không; chức vụ (Đảng, Đoàn thể, Chính quyền) trước khi phạm tội: Không;
Con ông Nguyễn Văn P (đã chết); và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963; có vợ là Nguyễn Thị V, sinh năm 1989; có 03 con (lớn sinh năm 2013; nhỏ sinh năm 2019); gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 02;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2021. Hiện đang bị tạm tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt);
2. Nguyễn Trung D (không có tên gọi khác), sinh ngày 08 tháng 3 năm 1986, tại tỉnh Thái Nguyên;
Đăng ký hộ khẩu:Tổ 11, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; nơi ở: Tổ 5, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; giới tính:Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Không; chức vụ (Đảng, Đoàn thể, Chính quyền) trước khi phạm tội: Không;
Con ông Nguyễn Văn Q (đã chết); và bà Bùi Thị H, sinh năm 1966; có vợ là Phạm Ngọc A, sinh năm 1994; có 01 con sinh năm 2015; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất;
- Tiền sự: Không;
- Tiền án:Tại Bản án số: 477/2020/HS-ST ngày 29/10/2020 của TAND thành phố Thái Nguyên đã xử phạt 24 tháng tù; phạt bổ sung 10.000.000đồng về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”- chưa thi hành án;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2021. Hiện đang bị tạm tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt);
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1989 (vợ bị cáo H);
ĐKHK và ở:Xóm Đ, xã H, tp. Thái Nguyên (có mặt);
+ Người làm chứng:
- Bà Đào Thị D, sinh năm 1959 (mẹ vợ bị cáo D);
- Chị Phạm Ngọc A, sinh năm 1994 (vợ bị cáo D);
Cùng ĐKHK và ở: Tổ 5, phường T, thành phố Thái Nguyên;
-Anh Bàn Tiến C, sinh năm 1979 (người đứng tên đăng ký chiếc xe mô tô do bị cáo H sử dụng);
ĐKHKvà ở: Xóm K, xã T, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn;
( đều vắng mặt)
+Người chứng kiến: - Ông Bùi Văn H, sinh năm 1960;
ĐKHK và ở: Tổ 11, phường T, thành phố Thái Nguyên;
- Ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 1959;
ĐKHK và ở: Tổ 12, phường T, thành phố Thái Nguyên;
- Bà Đỗ Thị Th, sinh năm 1962;
ĐKHK và ở: Tổ 5, phường T, thành phố Thái Nguyên;
( đều vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 18 giờ 20 phút ngày 25/01/2021, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 11, phường Túc Duyên thì phát hiện 01 người đàn ông đang ngồi trên xe mô tô biển kiểm soát 12 B1- 024.71 đỗ ở rìa đường, có biểu hiện liên quan đến ma túy.Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, đối tượng tự khai là Nguyễn Văn H. H đã tự giác giao nộp cho Tổ công tác toàn bộ số ma túy H đang cất giấu, cụ thể như sau:
- 01gói ni lon màu trắng, bên trong chứa 11 viên nén màu hồng-H giấu trong túi quần phía sau bên phải H đang mặc (niêm phong bì ký hiệu H);
- 01 gói ni lon màu trắng,bên trong chứa 02 viên nén màu hồng-H giấu trong hốc gương bên trái xe mô tô (bì niêm phong ký hiệu H1;
- 01gói băng dính màu đen,bên trong có: 01 gói ni lon màu trắng chứa 05 viên nén màu hồng; 01 gói ni lon màu trắng chứa 20 viên nén màu hồng (bì niêm phong ký hiệu H2);
H khai những viên nén màu hồng nói trên là ma túy Hồng Phiến, H mang đi bán để kiếm lời.
Tổ công tác đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng trên có theo quy định.
Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của H 01điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE- màu đen, số IMEI:356693081757488; 01xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, biển kiểm soát: 12 B1- 024.71 màu đỏ đen (đều đã qua sử dụng);
Cùng ngày,Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H nhưng không phát hiện, thu giữ vật chứng gì. Đồng thời, tiến hành mở niêm phong, cân số viên nén màu hồng đã thu giữ của H, xác định:
-Bì niêm phong ký hiệu H có khối lượng 1,172 gam (niêm phong toàn bộ bì ký hiệu A gửi giám định);
- Bì ký hiệu H1 có khối lượng là 0,191 gam (niêm phong toàn bộ bì ký hiệu A1 gửi giám định);
- Bì ký hiệu H2 có khối lượng là 2,671 gam (niêm phong toàn bộ bì ký hiệu A2 gửi giám định);
Tại Kết luận giám định số 378/KL-KTHS ngày 03/02/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận:
- Mẫu viên nén màu hồng trong bì ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,172 gam;
- Mẫu viên nén màu hồng trong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,191 gam ;
- Mẫu viên nén màu hồng trong bì ký hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 2,671 gam ;
Tại Cơ quan điều tra H khai nhận:
- Khoảng 16 giơ ngày 19/01/2021 H đến nhà Nguyễn Trung D tại tổ 5, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên, mục đích để mua ma túy bán kiếm lời. Tại đây, H đã mua của D 01 số ma túy dạng Hồng Phiến với giá là 2.000.000 đồng. H đã cất giấu số ma túy này gần khu vực nhà ở của H;
- Khoảng 18 giờ ngày 24/01/2021 H tiếp tục mua của D 01 gói ma túy đá với giá 400.000đồng, H đã sử dụng hết số ma túy này;
- Khoảng 18 giờ ngày 25/01/2021 H điều khiển xe mô biển kiểm soát 12 B1- 024.71 mang ma túy mua của D ngày 19/01/2021 từ nhà (tổ 13, phường Túc Duyên) đến khu vực tổ 11, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên với mục đích bán số ma túy này kiếm lời. Khi chưa kịp bán thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên;
- H xác định chiếc điện thoại di động nói trên là tài sản riêng của H, H không sử dụng chiếc điện thoại này vào việc thực hiện hành vi phạm tội;
- Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12 B1-024.71 là do vợ H (chị V) mua để sử dụng đi làm hàng ngày. Do H nghiện ma túy nên không đóng góp tiền cho chị V trong việc mua xe. Chị V không biết H sử dụng tài sản này vào việc phạm tội;
Hồi 16 giờ 55 phút ngày 26/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp: Người, chỗ ở, địa điểm phương tiện đối với Nguyễn Trung D tại tổ 5, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên, đã phát hiện và thu giữ:
+ 01gói giấy vệ sinh màu trắng, bên trong có 01 túi ni lon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng;
+ 01 túi ni lon màu xanh, bên trong chứa 170 viên nén màu hồng ;
+ 02 viên nén màu xanh;
(các vật chứng trên thu giữ tại vị trí mái tôn cạnh cửa sổ phòng ngủ của D- được niêm phong bì ký hiệu D);
+ 02 túi ni lon màu xanh (thu giữ tại tủ nhựa để tại vị trí gần cầu thang tầng 3);
+ 01điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, số Imei:
353760/04/617409/2 -đã qua sử dụng (thu giữ tại phòng ngủ của D);
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã tiến hành mở niêm phong, cân số tinh chất và số viên nén đã thu giữ nói trên, xác định:
-Số chất tinh thể màu trắng trong bì ký hiệu D có khối lượng là 0,363 gam (niêm phong toàn bộ bì ký hiệu D1 gửi giám định);
- 170 viên nén màu hồng trong bì ký hiệu D có khối lượng là 17,166 gam (lấy 0,004 gam niêm phong bì ký hiệu D2 gửi giám định). Số còn lại là 16,162 gam được niêm phong bảo quản theo quy định (bì ký hiệu L);
- 02 viên nén màu xanh trong bì ký hiệu D có khối lượng là 0,18 gam (niêm phong toàn bộ bì ký hiệu D3 gửi giám định);
Tại Kết luận giám định số 400/KL-KTHS ngày 04/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận:
- Mẫu chất tinh thể màu trắng trong bì ký hiệu D1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,363 gam;
- Mẫu viên nén màu hồng trong bì ký hiệu D2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine- có khối lượng thu giữ ban đầu: 17,166 gam;
- Mẫu viên nén màu xanh trong bì ký hiệu D3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,18 gam;
Tại Cơ quan điều tra D khai nhận: D cùng vợ là chị Phạm Ngọc A đang sống tại nhà bà Đào Thị D (mẹ đẻ chị A), tại tổ 5, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên. Khoảng 22 giờ ngày 23/01/2021, D sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen nói trên gọi cho người đàn ông không quen biết và không rõ địa chỉ có tên thường gọi là "Linh Hồng" để giao dịch mua, bán ma túy. Đối tượng này đến địa điểm đã hẹn tại tổ 5, phường Túc Duyên và giao cho D 01 gói ma túy đá, 01 gói ma túy Hồng Phiến với giá là 7.000.000.000đ (bảy triệu đồng). Mục đích của D mua số ma túy này là để bán kiếm lời. Ngay khi giao dịch D đã xóa toàn bộ thông tin, dữ liệu có liên quan đến việc mua, bán ma túy trên điện thoại, nhằm che giấu hành vi phạm tội. D đã cất giấu toàn bộ số ma túy đã mua tại nơi ở.
Đến khoảng 18 giờ ngày hôm sau (24/01/2021) D bán cho H 01 gói ma túy đá với giá 400.000 đồng. Số ma túy còn lại chưa kịp bán thì bị Tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, thu giữ như đã nêu trên.
D xác định chỉ bán ma túy cho H 01 lần nêu trên, không thừa nhận việc H khai đã mua ma túy của D vào ngày 19/01/2021.
Các vật chứng và tài sản nêu trên đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý ;
Tại Bản cáo trạng số 263/CT-VKSTP ngày 20/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thành phố Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 - sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS); Truy tố Nguyễn Trung D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của BLHS này;
Tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo giữ nguyên lời khai và hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Kết thúc phần xét hỏi,vị đại diện VKSND thành phố Thái Nguyên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích các tài liệu chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra và diễn biến tại phiên tòa đã giữ nguyên Quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS; bị cáo Nguyễn Trung D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của BLHS.
Xác định các bị cáo đều được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; bị cáo H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của BLHS ; bị cáo D phạm tội khi chưa được xóa án tích do đó phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS ;
Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo và xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đại diện VKS đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo H từ 04 đến 05 năm tù; xử phạt bị cáo D từ 11 đến 12 năm tù và tổng hợp hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 477/2020/HS-ST ngày 29/10/2020 D chưa thi hành, buộc D phải chấp hành hình phạt chung theo quy định;
Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án, đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;
Vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận mà hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản Cáo trạng đã truy tố, nhất trí với Bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị HĐXX giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án,căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; VKSND thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp;
Người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên, các tài liệu có trong hồ vụ án đủ cơ sở cho việc giải quyết vụ án, do đó HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người tham gia tố tụng này theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung:
2.1.Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Bản Cáo trạng của VKSND thành phố Thái Nguyên đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của Người làm chứng; Người chứng kiến; Biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác. Chứng minh đầy đủ, toàn diện các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo, do đó HĐXX có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 18 giờ 20 phút ngày 25/01/ 2021, tại khu vực tổ 11, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên,tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ 4,034 gam chất ma túy, loại Methamphetamine. Hồi 16 giờ 55 phút ngày 26/ 01/2021, tại tổ 05, phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Nguyễn Trung D đã có hành vi tàng trữ 17,709 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, các bị cáo đều có mục đích bán số ma túy này để kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện và thu giữ vật chứng như đã nêu trên;
Hành vi của các bị cáo đã thực hiện nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố. Tính chất, mức độ hành vi phạm tội của H là nghiêm trọng; tính chất, mức độ hành vi phạm tội của D là rất nghiêm trọng. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ con người, kinh tế- xã hội và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác nhưng vẫn cố ý thực hiện. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, do đó hành vi của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý ", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của BLHS. Hành vi của bị cáo D đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý ", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của BLHS. VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố các bị cáo tại Bản cáo trạng nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Nội dung quy định này như sau:
Điều 251.“ Tội mua bán trái phép chất ma túy “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:/.../ i)... Methamphetamine...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam"
2.2. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:
Các bị cáo đều có tuổi đời còn trẻ nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vô trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, coi thường kỷ cương pháp luật. Để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội như nêu trên;
Bị cáo H là đối tượng nghiện ma túy; bị cáo D đã bị kết án về hành vi phạm tội cùng tính chất với lần phạm tội này, chưa chấp hành án, chưa được xóa án tích, nhưng D không coi đó là bài học để sửa chữa lỗi lầm mà tiếp tục lấn sâu vào con đường tội lỗi, do đó D phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 của Điều 52 của BLHS (Tái phạm).
Xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội các bị cáo đã gây ra, cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và để đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, cũng xét thấy tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, do đó các bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS . Mức án vị đại diện VKSND thành phố Thái Nguyên đề nghị HĐXX áp dụng đối với các bị cáo như nêu trên là có căn cứ. Tuy nhiên, khi lượng hình nên xem xét, giảm nhẹ 01 phần trách nhiệm cho bị cáo D, tạo điều kiện cho bị cáo nhận thấy sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo.
Tại bản án số 477/2020/HS-ST ngày 29/10/2020 của TAND thành phố Thái Nguyên xử phạt D 24 tháng tù, D chưa chấp hành bản án này và lại thực hiện hành vi phạm tội mới như nêu trên. Căn cứ khoản 2 Điều 56 của BLHS cần tổng hợp hình phạt của bản án này và hình phạt chưa chấp hành của bản án trước, buộc D phải chấp hành hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của BLHS, thời hạn chấp hành hình phạt chung của 02 bản án tính từ ngày 26/01/2021 (thời điểm bị cáo bị tạm giữ, tạm giam trong vụ án này). Được trừ đi thời gian tạm giữ tại bản án trước (từ ngày 15/6/2020 đến ngày 19/6/2020) .
+ Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 251 của BLHS quy định "Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...".Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án của các bị cáo, HĐXX không áp dụng hình phạt này đối với các bị cáo, tạo điều kiện giúp cho các bị cáo yên tâm cải tạo.
[3]Về vật chứng vụ án và các tài sản khác: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của BLHS và điểm a,b,c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. HĐXX xét thấy cần xử lý như sau:
* Về vật chứng vụ án gồm:
+ 4,034 gam ma túy loại Methamphetamine (thu giữ của H) và 17,709 gam ma túy loại Methamphetamine (thu giữ của D) được niêm phong bì ký hiệu L và 06 bì niêm phong ký hiệu A; A1;A2; D1; D2; D3 bên trong chứa chất ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Cần tịch thu tiêu hủy vật chứng này;
+ 02 túi ni lon màu xanh không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen; số Imei:353760/ 04 /617409/2 (đã qua sử dụng) là tài sản thuộc quyền sở hữu của D, D thừa nhận đã sử dụng chiếc điện thoại này giao dịch mua số ma túy nói trên. Do đó cần tịch thu tài sản này để sung quỹ Nhà nước;
*Về các tài sản tạm giữ của H;
+ 01điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE- màu đen; Số IMEI: 356693 081757488 là tài sản thuộc quyền sở hữu của H. Kết quả kiểm tra thể hiện H không sử dụng chiếc điện thoại này vào việc phạm tội, do đó cần hoàn trả H tài sản này. Do H phải thực hiện nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm, do đó cần tạm giữ tài sản này để đảm bảo thi hành án.
+ 01xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, biển kiểm soát: 12 B1- 024.71 màu đỏ đen; Số máy: 5C 641 043 165; số khung: RLCS5C641DY 043163, đăng ký xe mang tên chủ cũ là anh Bàn Tiến C. Qua xác minh anh C xác nhận đã bán chiếc xe này và không còn liên quan gì (anh C không nhớ thời điểm bán và người mua).
Tại phiên tòa H và chị V xác định: Chiếc xe mô tô trên là tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của chị V, do H nghiện ma túy nên khi chị V mua xe này H không đóng góp tài chính với chị V; chị V không biết việc H sử dụng xe làm phương tiện phạm tội như nêu trên, do đó chị V đề nghị được hoàn trả lại tài sản này.
HĐXX xét thấy bị cáo H nghiện ma túy nhiều năm là thực tế, do đó việc chị V xác định nguồn gốc hình thành tài sản này do chị V tạo lập là có căn cứ, vì vậy xác định chiếc xe này là tài sản riêng của chị V và cần hoàn trả cho chị V.
Các vật chứng và tài sản trên hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên (Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 388 do Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên lập ngày 19/5/2021).
[4] Các vấn đề khác:
- Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của đối tượng bán ma túy cho D, vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên xác định không có cơ sở xử lý đối tượng này là có căn cứ;
- D không thừa nhận việc H khai đã mua ma túy của D vào ngày 19/01/2021. Kết quả điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh lời khai này của H. Cơ quan điều tra xác định không có cơ sở xác định D đã bán ma túy cho H vào ngày 19/01/2021 và không có căn cứ xác định đối tượng đã bán ma túy cho H là có cơ sở.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước;
[6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331;332 và 333 của BLTTHS;
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các quy định:
+ Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS (áp dụng đối với bị cáo H); Điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 ; khoản 2 Điều 56 của BLHS (áp dụng đối với bị cáo D);
+ Điều 38 ; Khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 1, 3 Điều 329; Điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331;332 và 333 của BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án (áp dụng chung);
Tuyên bố:
1.Về tội danh: Bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Nguyễn Trung D phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” ;
2.Về hình phạt chính:
2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 4 (bốn) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 25/01/2021;
2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung D 10 (mười) năm tù. Tổng hợp hình phạt 24 tháng tù tại bản án số 477/2020/HSST ngày 19/10/2020 của TAND thành phố Thái Nguyên, buộc bị cáo D phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 12 (mười hai) năm tù.
Thời hạn phạt tù tình từ ngày 26/01/2021 (thời điểm bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam trong vụ án này), được trừ đi thời gian đã tạm giữ theo bản án số 477/2020/HSST ngày19/10/2020 (từ ngày 15/6/2020 đến ngày 19/6/2020);
Quyết định tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;
4.Về vật chứng và các tài sản khác:
+Tịch thu tiêu hủy 07 bì niêm phong gồm: Bì ký hiệu L; A; A1;A2; D1; D2; D3 - bên trong có ma túy; 02 túi ni lon màu xanh;
+Tịch thu của bị cáo D 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen;số IMEI:353760/04/617409/2(đã qua sử dụng)để sung quỹ Nhà nước;
+Hoàn trả bị cáo H 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE- màu đen; số IMEI: 356693 081757488- đã qua sử dụng; tạm giữ tài sản này để đảm bảo thi hành án về án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo H.
+Hoàn trả chị Nguyễn Thị V 01xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, biển kiểm soát: 12 B1-024.71 màu đỏ đen; số máy: 5C 641 043 165; số khung: RLCS5C641DY 043163 (đã qua sử dụng).
Các vật chứng và tài sản trên hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên (tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 388 do Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Nguyên lập ngày 19/5/2021);
5.Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ ( hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 240/2021/HSST
Số hiệu: | 240/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về