Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 237/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 237/2022/HS-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 212/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/ Thạch H, sinh năm 1992 tại tỉnh Trà Vinh; thường trú: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Lớp 2/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khme; tôn giáo: Phật; giới tính: Nam; con ông Thạch M (đã chết) và bà Thạch Thị Sa V, sinh năm 1963; vợ tên Thạch Thị M, sinh năm 1999; có 01 con sinh năm 2017; có 03 anh chị, lớn nhất không rõ năm sinh, nhỏ nhất là bị cáo; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 15/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

2/ Phan Yên L, sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Tháp; thường trú: Khóm T, thị trấn T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Phan Văn T, sinh năm 1974 và bà Trần Thị H, sinh năm 1977; có 01 chị sinh năm 1997; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 15/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

3/ Phi Nguyễn Toàn P, sinh năm 1993 tại tỉnh Khánh Hòa; thường trú: Thôn M, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính:

Nam; con ông Phi Văn H, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972;

vợ tên Thạch Thị Pha R, sinh năm 1993; có 02 lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2021; có 02 em lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không;

bị bắt tạm giam ngày 16/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị Mỹ N, sinh năm 1999; thường trú: Xóm C, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

1/ Anh Châu Minh D. Vắng mặt.

2/ Anh Văn Đình Thanh S. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 15/01/2022, Công an phường D phối hợp với Đội cảnh sát kinh tế - ma túy Công an thành phố D tiến hành tuần tra trên địa bàn phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Khi đến đoạn đường trước nhà hàng Đ, đường ĐT 743B, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương phát hiện Thạch H điều khiển xe mô tô biển số 84G1-61787 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thấy trong lòng bàn tay trái của H có 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra, Thạch H khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 15/01/2022, H dùng điện thoại di động hiệu Vivo màu đỏ sim số 0394157967 nhắn tin vào số điện thoại 0325750325 của Phan Yên L nhờ mua giúp 300.000đ ma túy để sử dụng. Lực lượng Công an tiếp tục tuần tra và kiểm tra khu vực nhà trọ không số của Phan Yên L ở tổ 44, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương phát hiện Phan Yên L đang cầm trong bàn tay phải 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra, Phan Yên L khai nhận: Sau khi nhận tin nhắn của Thạch H, Phan Yên L đi tới căn kiot số 01, nhà trọ không số, tổ 43, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương gặp Phi Nguyễn Toàn P mua 300.000đ ma túy. Sau đó, L gọi điện thoại cho H hẹn đến lấy ma túy và hẹn sáng ngày hôm sau sẽ trả tiền. L nói lại với P về việc H hẹn sáng mai sẽ trả tiền. P nói với L chỉ lấy 200.000đ còn 100.000đ cho L. Khi L nói với P không có tiền tiêu xài, thì P đưa cho L 01 gói ma túy đá và nói nếu bán được P chỉ lấy 1.300.000đ, L bán được nhiều hơn thì được hưởng tiền chênh lệch. Khi L mang gói ma túy đi tìm người nghiện để bán thì bị bắt.

Lực lượng Công an khám xét khẩn cấp căn kiot số 01, nhà trọ không số, tổ 43, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương của Phi Nguyễn Toàn P thu giữ 01 túi nylon màu trắng bên trong có 01 gói thuốc lá hiệu Jet chứa 02 gói nylon miệng kéo dính bên trong có tinh thể màu trắng được để trong ngăn tủ quần áo bên phải. Quá trình điều tra P khai nhận: Khoảng 15 ngày trước khi bị bắt, P tới khu vực gần cầu Vĩnh Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương gặp 01 người đàn ông (không rõ nhân thân) mua 2.000.000đ được 03 gói ma túy đá. Ngày 15/01/2022, L đến mua giúp H 300.000đ ma túy đá thì P chia 01 gói ma túy ra đưa cho L đi giao cho H, phần còn lại P đưa cho L đi tìm người bán thì bị bắt.

* Căn cứ Bản kết luận giám định số 92/MT-PC09 ngày 21/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Các chất tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy loại Methamphetamine khối lượng M1 thu giữ của Thạch H 0,1329gam, M2 thu giữ của Phan Yên L là 2,5518gam, M3 thu giữ của Phi Nguyễn Toàn P là 3,5865gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 92/MT-PC09 ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Vật chứng: Xe mô tô biển số 84G1-61787; điện thoại di động Vivo màu đỏ sim số 0394157967 của bị cáo Thạch H và điện thoại di động và điện thoại di động Samsung màu đỏ sim số 0325750325 của bị cáo Phan Yên L; 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng khối lượng 0,1329gam; 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng khối lượng 2,5518gam;

02 gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng khối lượng 3,5865gam.

Đối với xe mô tô biển số 84G1-61787 là tài sản của chị Nguyễn Thị Mỹ N cho bị cáo Thạch H mượn sử dụng nhưng không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại xe cho chị Ngân là đúng quy định.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phi Nguyễn Toàn P hiện chưa rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 235/CT -VKS ngày 12 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phi Nguyễn Toàn P về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Phan Yên L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Thạch H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Phi Nguyễn Toàn P 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo chấp hành từ 09 năm 06 tháng đến 10 năm 06 tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Phan Yên L từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Thạch H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung Ngân sách Nhà nước điện thoại di động Vivo màu đỏ và điện thoại di động Samsung màu đỏ; tịch thu tiêu hủy 03 bì thư được niêm P ghi số 92/PC09M1, 92/PC09M2, 92/PC09M3 chứa ma túy còn lại sau giám định là M1 = 0,0587gam, M2 = 2,3322gam, M3=3,4766gam và sim số 0394157967, 0325750325.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, trong phần nói lời sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tố tụng, các bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị Mỹ N đã nhận lại xe mô tô biển số 84G1-61787 và không còn yêu cầu gì khác, căn cứ vào Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Ngân.

[2] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 15/01/2022, Thạch H có hành vi tàng trữ 0,1329gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo Phi Nguyễn Toàn P tàng trữ 3,5865gam ma túy loại Methamphetamine tại kiot số 1, nhà trọ không số tổ 43, khu phố C, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo Phi Nguyễn Toàn P và Phan Yên L bán ma túy loại Methamphetamine cho Thạch H vào ngày 15/01/2022 và đang trên đường đi tìm người mua thì bị bắt đã yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng số 235/CT -VKS ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo Phi Nguyễn Toàn P và Phan Yên L thực hiện là rất nghiêm trọng; tội phạm do bị cáo Thạch H thực hiện là nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam tư lợi, bị nghiện ma túy các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.

[4] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo Phi Nguyễn Toàn P là người có vai trò tích cực, bị cáo nhờ Phan Yên L đi giao ma túy và trả công cho bị cáo L bằng tiền.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cần cân nhắc xem xét.

[8] Xử lý vật chứng:

Xét 03 bì thư được niêm P ghi số 92/PC09M1, 92/PC09M2, 92/PC09M3 chứa ma túy còn lại sau giám định là M1 = 0,0587gam, M2 = 2,3322gam, M3=3,4766gam là vật cấm lưu thông và các sim số 0394157967, 0325750325 là vật chứng trong vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Xét điện thoại di động Vivo màu đỏ thu giữ của bị cáo Thạch H và điện thoại di động Samsung màu đỏ thu giữ của bị cáo Phan Yên L, các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với xe mô tô biển số 84G1-61787 là tài sản của chị Nguyễn Thị Mỹ N cho bị cáo Thạch H mượn sử dụng nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã trả lại xe cho chị N là đúng quy định.

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phi Nguyễn Toàn P hiện chưa rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[11] Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, bị nghiện ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục các bị cáo thành người có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[12] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, mức hình phạt tù đối với các bị cáo cũng đủ sức giáo dục, cải tạo, đồng thời các bị cáo là người nghiện, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[13] Mức hình phạt, xử lý vật chứng như Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo Phi Nguyễn Toàn P và Thạch H là phù hợp nên chấp nhận. Đối với bị cáo Phan Yên L tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo P nên Hội đồng xét xử quyết định xử phạt bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[14] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phi Nguyễn Toàn P phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Tuyên bố bị cáo Phan Yên L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Tuyên bố bị cáo Thạch H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phi Nguyễn Toàn P 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 02 (hai) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp chung hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành là 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.

* Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Yên L 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2022.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Thạch H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2022.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước điện thoại di động Vivo màu đỏ và điện thoại di động Samsung màu đỏ;

- Tịch thu tiêu hủy 03 bì thư được niêm P ghi số 92/PC09M1, 92/PC09M2, 92/PC09M3 chứa ma túy còn lại sau giám định là M1 = 0,0587gam, M2 = 2,3322gam, M3=3,4766gam và sim số 0394157967, 0325750325.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Phi Nguyễn Toàn P, Phan Yên L và Thạch H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 237/2022/HS-ST

Số hiệu:237/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về