Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 237/2022/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 237/2022/HSPT NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 884/2021/TLPT-HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Đỗ Thị Thùy L cùng đồng phạm bị xét xử sơ thẩm về tội “Đánh bạc” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2021/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Thị Thùy L; giới tính: Nữ; sinh ngày 03 tháng 10 năm 1992 tại thị xã B, tỉnh Thanh Hoá; nơi cư trú: Số nhà 193 đường T, khu phố 3, phường B, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; con ông Đỗ Văn H (đã chết) và bà Trần Thị H; có chồng là Phạm Văn Đ; có 02 con, lớn sinh năm 2014; nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 195/2011/HSST ngày 31/8/2011 của TAND quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt Đỗ Thị Thùy L 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến ngày 03/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Họ và tên: Hoàng Xuân T. Giới tính: Nam; sinh ngày 08 tháng 12 năm 1982 tại thị xã B, tỉnh Thanh Hoá; nơi cư trú: Số nhà 182, đường L, khu phố 4, phường L, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Hoàng Xuân T, sinh năm 1952 và bà Lê Thị N, sinh năm 1956; vợ là Tống Thị N; có 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh tháng 9/2020; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 03/9/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Đã có kết quả triệu tập hợp lệ nhưng bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo bản án sơ thẩm, trong năm 2019 và 2020, có 14 bị cáo trong đó có 03 bị cáo đang kháng cáo, gồm: Đỗ Thị Thùy L, Nguyễn Văn T, Hoàng Xuân T đã sử dụng phần mềm ứng dụng Zalo, tin nhắn điện thoại, fax để thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức: Lấy kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng hàng ngày xác định kết quả thắng thua. Các đối tượng thống nhất quy ước với nhau: 01 điểm “đề” có giá từ 710 đồng đến 800 đồng khi trúng sẽ được trả thưởng 70.000 đồng, 01 điểm “lô” có giá từ 21.500 đồng đến 22.500 đồng khi trúng sẽ được trả thưởng 80.000 đồng, 01 điểm “đề ba càng” có giá từ 900 đồng đến 1.000 đồng khi trúng sẽ được trả thưởng 400.000 đồng, 01 điểm “lô xiên” bằng 1.000 đồng khi trúng “lô xiên” 2 sẽ được trả thưởng 12.000 đồng, khi trúng “lô xiên” 3 sẽ được trả thưởng 45.000 đồng, khi trúng “lô xiên” 4 sẽ được trả thưởng 150.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc, ai thắng sẽ nhận tiền vào ngày hôm sau.

Quá trình điều tra đã xác định được hành vi đánh bạc của các bị cáo đang có kháng cáo như sau:

1. Hành vi đánh bạc của Đỗ Thị Thùy L:

- Ngày 01/8/2020, L sử dụng số điện thoại số 0984.854.092 để nhận số lô, số đề của Lại Thị K ở số nhà 10, khu phố 3, phường N, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa qua tin nhắn điện thoại số: 0393091754 gồm: 185 điểm đề bằng 138.750đ; 74 điểm lô bằng 1.628.000đ; 200 điểm lô xiên bằng 200.000đ. Số tiền ghi lô, đề là 1.966.750đ. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc ngày 01/8/2020, Lại Thị K trúng 16 điểm lô bằng 1.280.000 đồng.

- Ngày 01/8/2020, Đỗ Thị Thùy L nhận lô, đề của một người phụ nữ có tên “Đồng” bán rau ở chợ B với số tiền đánh bạc là 512.000đ. Hiện chưa xác định nhân thân lai lịch người có tên “Đồng”.

- Ngày 01/8/2020 L sử dụng số điện thoại 0989.484.123 đăng ký ứng dụng Zalo lấy tên “L Còi” để nhận số lô, số đề của: Phạm Văn S, sinh năm 1996 ở khu 3, phường P, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa. Có tên zalo “Sơn em” đăng ký qua số điện thoại 0966.120.213, Sơn chuyển 200 điểm lô bằng 4.400.000đ. Sau khi có Kết quả xổ số miền Bắc ngày 01/8/2020, Sơn không trúng.

- Ngày 01/8/2020, L nhận của Nguyễn Văn V, sinh năm 1982 ở số nhà 56, khu phố 6, phường Bắc Sơn, thị xã B có tên Zalo “Hoa Thanh Táo” đăng ký từ số điện thoại 0983.559.574 gồm: 240 điểm lô bằng 5.280.000đ và 300 điểm đề bằng 225.000đ. Số tiền ghi lô, đề là 5.505.000đ sau khi có kết quả xổ số miền Bắc ngày 01/8/2020, Việt trúng 140 điểm lô bằng 11.200.000đ.

Sau khi nhận lô, đề của Lại Thị K, Phạm Văn S, Nguyễn Văn V, L đã chuyển toàn bộ số lô, đề trên và ghi thêm một số khác chuyển 35 tin nhắn cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 ở khu 6, phường N, thị xã B, có tên Zalo “Lộc Phát” đăng ký qua số điện thoại: 0942.095.659 gồm 35 tin nhắn: 8.749.000đ tiền đề, 131.947.000đ tiền lô và 616.000đ tiền lô xiên. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc ngày 01/8/2020, L trúng cả lô và đề là 125.020.000đ.

2. Hành vi đánh bạc của Hoàng Xuân T:

Trong năm 2019 Hoàng Xuân T đã gửi 04 lần đánh bạc bằng hình thức lô, đề với Hoàng Trọng B qua phần mềm ứng dụng Zalo đăng ký số điện thoại 0973.906.358:

- Ngày 07/8/2019, Tuyên gửi cho B 550 điểm lô bằng 12.375.000đ. Sau khi có kết quả xổ số miền B ngày 07/8/2020, T trúng 200 điểm lô bằng 16.000.000đ.

- Ngày 08/8/2019, Tuyên gửi cho B 500 điểm lô bằng 11.250.000đ. Sau khi có Kết quả xổ số miền Bắc ngày 08/8/2019, T trúng 50 điểm lô bằng 4.000.000đ.

- Ngày 11/8/2019, T gửi cho B 500 điểm lô bằng 11.250.000đ. Sau khi có kết quả xổ số miền B ngày 11/8/2019, T trúng 300 điểm lô bằng 24.000.000đ.

- Ngày 12/8/2019, T gửi cho B 350 điểm lô bằng 7.875.000đ. Sau khi có kết quả xổ số miền B ngày 11/8/2019, T trúng 50 điểm lô bằng 4.000.000đ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2021/HS-ST ngày 23/7/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tuyên bố các bị cáo Đỗ Thị Thùy L, Nguyễn Văn T, Hoàng Xuân T (và các đồng phạm không có kháng cáo) phạm tội: “Đánh bạc”.

Về hình phạt:

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Đỗ Thị Thùy L 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến ngày 03/9/2020.

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Hoàng Xuân T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 03/9/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo khác, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/7/2021, bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Hoàng Xuân T kháng cáo đề nghị được giảm hình phạt và được hưởng án treo.

Ngày 04/8/2021, bị cáo Đỗ Thị Thùy L kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 06/4/2022, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn rút toàn bộ kháng cáo.

Cùng ngày 06/4/2022, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa đã ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 23/2022/HSPT-QĐ đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, tòa;

- Bị cáo Đỗ Thị Thùy L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

- Bị cáo Hoàng Xuân T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:

+ Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự để xét xử vụ án vắng mặt các bị cáo;

+ Không có căn cứ chấp nhận kháng cáo đề nghị được giảm hình phạt của bị cáo Đỗ Thị Thùy L; kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo Hoàng Xuân T. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên quyết định về hình phạt tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo Hoàng Xuân T và Đỗ Thị Thùy L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn, có hình thức và nội dung phù hợp theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với nhau, phù hợp khách quan với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Trong năm 2019 và năm 2020, bị cáo Đỗ Thị Thùy L, Hoàng Xuân T và một số đối tượng có liên quan trong vụ án đã sử dụng phần mềm ứng dụng Zalo, tin nhắn điện thoại, fax để thực hiện việc đánh bạc qua hình thức lô, đề. Các bị cáo sử dụng kết quả xổ số miền Bắc của Nhà nước mở thưởng hàng ngày để xác định kết quả của việc đánh bạc, quy ước mức độ sát phạt, để thanh toán số tiền thắng/thua trong việc đánh bạc. Hành vi cụ thể của từng bị cáo như sau:

- Đỗ Thị Thùy L: Ngày 01/8/2020, bán số lô, số đề cho Lại Thị K, Phạm Văn S, Nguyễn Văn V. Sau đó, L chuyển toàn bộ số lô đề đã nhận, tự ghi thêm một số lô, số đề khác và chuyển 35 tin nhắn qua phần mềm Zalo cho Nguyễn Văn T. Tổng số tiền đánh bạc là 298.487.500 đồng.

- Hoàng Xuân T: Trong năm 2019 mua bán số lô, số đề với Hoàng Trọng Bắc 04 lần. Tổng số tiền đánh bạc là 90.750.000 đồng.

[2] Với hành vi của các bị cáo nêu trên, bản án sơ thẩm đã kết án các bị cáo Đỗ Thị Thùy L, Hoàng Xuân T về tội đánh bạc theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của của các bị cáo:

[3.1] Đối với bị cáo Đỗ Thị Thùy L: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nay lại cố ý phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng và đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 03 năm tù, là mức khởi điểm quy định tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới.

[3.2] Đối với bị cáo Hoàng Xuân T: Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự có hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Xác định bị cáo không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, có thành tích cung cấp thông tin cho Cơ quan công an bắt giữ 03 đối tượng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, có bố vợ là người có công với nước là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; đồng thời bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự do phạm tội nhiều lần. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 07 tháng tù, là mức thấp của khung hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Bị cáo phạm tội nhiều lần, do đó căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bị cáo không thuộc trường hợp được hưởng án treo. Hội đồng xét xử còn nhận thấy: Tổng số tiền bị cáo đánh bạc là 90.750.000 đồng nhưng bản án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự có hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm là không đúng nên kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

[3.3] Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Thùy L và bị cáo Hoàng Xuân T.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Đỗ Thị Thùy L và Hoàng Xuân T phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đỗ Thị Thùy L và bị cáo Hoàng Xuân T. Giữ nguyên quyết định về hình sự tại bản án hình sự sơ thẩm số 122/2021/HS-ST ngày 23/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa như sau:

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Đỗ Thị Thùy L: 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến ngày 03/9/2020.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Hoàng Xuân T: 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 03/9/2020.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đỗ Thị Thùy L phải chịu 200.000 đồng; bị cáo Hoàng Xuân T phải chịu 200.000 đồng.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 237/2022/HSPT

Số hiệu:237/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về