Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH THÁI BÌNH 

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnhThái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

24/2022/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Quang H, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1998 tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Trần Văn N và bà Trần Thị P; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Bản án số 81/2020/HS-ST ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố T xử phạt Trần Quang H 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Đã chấp hành xong án phạt tù ngày 28 tháng 4 năm 2021, chấp hành xong án phí vào ngày 28 tháng 8 năm 2020; Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 101/2017/HSST ngày 27 tháng 12 năm 2017, Toà án nhân dân huyện V xử phạt 04 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, chấp hành xong án phí vào ngày 09 tháng 7 năm 2018. (Có mặt)

 * Người làm chứng:

1. Anh Phạm Văn C, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Thôn T, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Đỗ Quang T, sinh năm 1996;

Nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện V, tỉnh Thái Bình

* Người chứng kiến:

1. Ông Trần Ngọc D, sinh năm 1968;

Nơi cư trú: Tổ M, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình

2. Anh Vũ Quang C, sinh năm 1985;

Nơi cư trú: Tổ M, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình (Anh C, anh T, ông D và anh C vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 17 tháng 01 năm 2022, Trần Quang H đi xe khách lên thị xã S, thành phố H tìm mua ma túy về bán kiếm lời. Khi đến thị xã S, H thuê nhà trọ ngủ qua đêm, đến khoảng 05 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2022, H đi vào một ngõ nhỏ ở gần phòng trọ, tìm và gặp mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi Methamphetamine với giá 4.000.000 đồng. H về phòng trọ chia nhỏ túi ma túy vừa mua thành 35 gói nhỏ (gồm 34 túi nhỏ bằng nhau và 01 túi lớn hơn) rồi giấu vào ngăn giữa của ví da màu nâu. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, H bắt xe khách về Thái Bình. Trên đường về H nhận được điện thoại và tin nhắn của Phạm Văn C (tên thường gọi là D) với nội dung hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. H đồng ý và hẹn giao ma túy cho C tại quán phở C thuộc tổ M, thị trấn V, huyện V. Khoảng 11 giờ cùng ngày, H xuống xe khách tại cầu T, thị trấn V, huyện V, gọi điện cho anh Đỗ Quang T đến đón và chở H ra quán phở C thì bị tổ công tác Công an huyện V giữ lại kiểm tra và thu giữ tại túi quần soóc bên phải phía trước H đang mặc 01 ví màu nâu, bên trong ngăn giữa của ví có 35 túi Methamphetamine trong suốt, trong đó 30 túi có khóa kẹp viền màu đỏ, 04 túi có khóa kẹp viền màu trắng và 01 túi được gắn kín, có tổng khối lượng 9,5259 gam. Ngoài ra, thu tại túi quần soóc bên trái phía trước H đang mặc 01 điện thoại Iphone vỏ màu hồng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của H tại thôn K, xã M, huyện V, tỉnh Thái Bình, tổ công tác phát hiện, thu giữ tại cửa sổ phòng ngủ của H: 01 cân tiểu ly vỏ màu đen đã cũ, đã qua sử dụng; 01 coóng thuỷ tinh không rõ hình. H khai coóng thuỷ tinh và cân tiểu ly là của H, coóng thuỷ tinh là dụng cụ sử dụng má tuý đá, cân tiểu ly để cân ma tuý khi chia nhỏ nhưng H chưa dùng lần nào.

Quá trình điều tra, lấy lời khai của Trần Quang H và anh Phạm Văn C còn xác định: Ngày 06 tháng 01 năm 2022, H đến thị xã S, thành phố H chơi thì tình cờ biết có người bán ma tuý đá nên H đã tự đi tìm, gặp và mua của một người đàn ông trong ngõ nhỏ thuộc thị xã S một túi ma tuý đá giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). H đã sử dụng hết một nửa số ma tuý mua được và mang phần ma tuý còn lại về nhà cất giấu trong người. Đến khoảng 10 giờ ngày 08 tháng 01 năm 2022, khi H đang ở nhà thì nhận được cuộc gọi từ Phạm Văn C hỏi mua một túi ma tuý đá giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), H đồng ý và hẹn mua bán tại cửa nhà nghỉ H, thuộc thôn N, xã T, huyện V. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, H đi xe taxi đến gần cửa nhà nghỉ H đưa cho C 01 túi ma tuý đá có khoá kẹp viền màu đỏ và nhận được 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng) từ C.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Kết luận giám định số 28/KLGĐMT-PC09 ngày 19 tháng 01 năm 2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận:

Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 9,5259 gam (Chín phẩy năm nghìn hai trăm năm mươi chín gam).

Methamphetamine STT: 323, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ.

Cáo trạng số 24/CT-VKSVT ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Trần Quang H về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, tuyên bố: Bị cáo Trần Quang H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; xử phạt Trần Quang H mức án từ 09 năm đến 10 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 01 năm 2022. Phạt bổ sung bằng tiền đối với Trần Quang H từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng sung Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 8,1571 gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 28/KLGĐMT-PC09 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 ví màu nâu đã cũ, đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly đã cũ, đã qua sử dụng; 01 coóng thuỷ tinh không rõ hình quản lý của H.

Truy thu số tiền bán ma túy cho C 300.000đồng là số tiền thu lời bất chính để nộp ngân sách nhà nước.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màn hình cảm ứng vỏ màu hồng đã cũ, đã qua sử dụng của Trần Quang H.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Ảnh chụp vật chứng thu giữ của Trần Quang H; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản khám xét của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V; Biên bản kiểm tra điện thoại của Trần Quang H; Biên bản kiểm tra điện thoại của Phạm Văn C; Bản Kết luận giám định số 28/KLGĐMT- PC09 ngày 19 tháng 01 năm 2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của anh Phạm Văn C, ông Trần Ngọc D, anh Vũ Quang C và anh Đỗ Quang T.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 13 giờ ngày 08 tháng 01 năm 2022, tại khu vực đường gần cửa nhà nghỉ H, thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, Trần Quang H đã có hành vi bán trái phép 01 túi ma tuý, loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) cho Phạm Văn C (tên thường gọi là D).

Hồi 11 giờ 10 phút ngày 18 tháng 01 năm 2022, tại trục đường thuộc tổ M, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình, Trần Quang H đã có hành vi cất giấu trái phép 35 túi Methamphetamine, có tổng khối lượng 9,5259 gam trong ngăn giữa ví màu nâu tại túi quần soóc bên phải phía trước H đang mặc, mục đích để bán kiếm lời. Trần Quang H đã liên lạc, thỏa thuận sẽ bán cho Phạm Văn C 300.000 đồng ma túy, loại Methamphetamine nhưng chưa kịp giao dịch mua bán thì đã bị bắt quả tang.

Hành vi của Trần Quang H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự .

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy:

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 9,5259 gam (Chín phẩy năm nghìn hai trăm năm mươi chín gam) và bán trái phép cho anh Phạm Văn C 01 túi ma tuý, loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng của Trần Quang H để kiếm lời là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn ma tuý đang là hiểm họa của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Những năm qua, tệ nạn ma tuý ở Việt Nam vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp và có xu hướng gia tăng cùng với việc xuất hiện nhiều loại ma tuý mới. Ma túy là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả, tác hại do tệ nạn ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự của đất nước. Ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ dẫn đến mất khả năng lao động, suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù bị cáo biết rõ tác hại của ma túy cũng như mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu. Năm 2017, bị cáo bị kết án 04 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng, cải sửa bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo không có tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào ngày 18 tháng 01 năm 2022, bị cáo đã tự nguyện khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy vào ngày 08 tháng 01 năm 2022 của bị cáo với anh Phạm Văn C (D) tại khu vực đường gần cửa nhà nghỉ H, thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. Do đó, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 30 tháng 6 năm 2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 28 tháng 4 năm 2021 nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Do vậy Huynh bị áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt:

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét thấy, bị cáo H mua bán ma túy vì mục đích vụ lợi. Do vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng và tài sản:

[6.1] Đối với số ma túy, loại Methamphetamine giám định hoàn lại còn lại 8,1571 gam, niêm phong trong phong bì số 28/KLGĐMT-PC09 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu để tiêu huỷ.

[6.2] 01 cân tiểu ly đã cũ đã qua sử dụng để cân ma túy; 01 coóng thuỷ tinh không rõ hình là công cụ sử dụng ma túy; 01 ví màu nâu đã cũ, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo, bị cáo dùng để cất giấu ma túy sau khi mua được và từ chối nhận lại nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[6.3] 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màn hình cảm ứng vỏ màu hồng đã cũ và đã qua sử dụng bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy. Do đó cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

[6.4] Truy thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng là tiền Trần Quang H bán ma túy cho Cương để thu lời bất chính vào ngày 08 tháng 01 năm 2022.

[7] Về những vấn đề khác trong vụ án:

[7.1] Đối với anh Phạm Văn C (D) là người đã hẹn mua ma tuý của Trần Quang H ngày 18 tháng 01 năm 2022 nhưng chưa kịp mua ma tuý thì Huynh đã bị bắt giữ. Ngày 08 tháng 01 năm 2022, tại cửa nhà nghỉ H thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, C đã mua một túi ma tuý đá giá 300.000 đồng của H để sử dụng nhưng không xác định được khối lượng ma túy mà C đã mua của H nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C.

[7.2] Đối với anh Đỗ Quang T là người dùng xe mô tô của mình chở H đến quán phở C để H bán ma túy nhưng không biết H cất giấu ma túy, không biết việc giao dịch mua bán ma túy giữa H và anh C. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V không xử lý đối với anh Đỗ Quang T là đúng quy định của pháp luật.

[7.3] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Trần Quang H, do H khai không quen biết, không có thông tin về họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Quang H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Trần Quang H 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 01 năm 2022 Phạt tiền bị cáo Trần Quang H 07 (bảy) triệu đồng sung vào Ngân sách Nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng và tài sản:

3.1 Tịch thu tiêu hủy: 8,1571 (tám phẩy một nghìn năm trăm bảy mươi mốt gam) gam ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 28/KLGĐMT-PC09 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 ví màu nâu đã cũ, đã qua sử dụng; 01 cân tiểu ly đã cũ, đã qua sử dụng; 01 coóng thuỷ tinh không rõ hình.

3.2 Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màn hình cảm ứng vỏ màu hồng đã cũ, đã qua sử dụng của Trần Quang H.

(Vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 04 tháng 4 năm 2022).

3.3 Truy thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng là tiền Trần Quang H bán ma túy cho C để thu lời bất chính vào ngày 08 tháng 01 năm 2022.

4. Về án phí: Bị cáo Trần Quang H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Quang H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29 tháng 4 năm 2022).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về