Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 226/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 226/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 185/2022/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 1952022/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 7 năm 2022, đối với:

1. Bị cáo Lê Nhật L, sinh ngày 13/02/2003 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ 7 Lư Cấm, phường H, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; con ông Lê Thành T và bà Hồ Thị Mai L; tiền sự, tiền án: không. Nhân thân: Bản kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố số 02 ngày 20/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Khánh Hòa đối với Lê Nhật L về tội “Che giấu tội phạm” quy định tại khoản 1 Điều 389 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị tạm giữ từ 07/01/2022 đến ngày 16/01/2022 tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Khánh Hòa, bị tạm giam từ ngày 16/01/2022 cho đến nay tại Nhà Tạm giữ - Công an thành phố Nha Trang; có mặt.

2. Bị cáo Nguyễn Anh T, sinh ngày 12/7/2001 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: 29/27 đường Trần Phú, phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị Ánh N; tiền sự, tiền án: không: Nhân thân: Bản kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố số 118 ngày 26/11/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đối với Nguyễn Anh T về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/01/2022 đến ngày 15/01/2022 tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Khánh Hòa, bị tạm giam từ ngày 15/01/2022 cho đến nay tại Nhà Tạm giữ - Công an thành phố Nha Trang; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Hiển Đ, sinh năm 2000, nơi cư trú: Đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Diễm M, sinh năm 1998; nơi cư trú: Đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Đinh Anh T; nơi cư trú: Đường H, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Đ; nơi cư trú: Đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

3. Chị Nguyễn Nhã Tr; nơi cư trú: Đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 06/01/2022, trong khi tuần tra tại khu vực vòng xoay đường Hoàng Diệu – đường Nguyễn Đức Cảnh, phường V, thành phố N, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Khánh Hòa phát hiện 02 (hai) nam thanh niên đi trên xe máy điện nhãn hiệu VINFAST, biển kiểm soát: MĐ1-067… có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu kiểm tra giấy tờ tùy thân, Lúc này, nam thanh niên điều khiển xe máy điện khai tên là Nguyễn Anh T và nam thanh niên ngồi sau khai tên là Nguyễn Hiển Đ. Tại đây, T tự lấy trong người ra giao nộp cho Tổ công tác 01 (một) bịch nylong màu đen được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong, ký hiệu A). T khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy “đá” do T mua của một thanh niên tên thường gọi là “Tân”, nhà ở khu vực gần nhà hàng Khế Vàng, phường H, thành phố Nha Trang.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Anh T, đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày, Tổ công tác đi đến khu vực ngã ba gần nhà hàng Khế Vàng thuộc tổ 7 Lư Cấm, phường N, thành phố Nha Trang và phát hiện một nam thanh niên có đặc điểm nhận dạng như T miêu tả nên mời về Công an phường Ngọc Hiệp làm việc. Qua làm việc, nam thanh niên khai tên là Lê Nhật L và thừa nhận đã bán “một góc tám” ma túy “đá” cho một nam thanh niên tên T với giá 700.000 đồng (Bảy trăm nghìn đồng) vào chiều ngày 06/01/2022. Đồng thời, L tự lấy từ trong người ra giao nộp cho tổ công tác 02 (hai) bịch nylong màu trắng được hàn kín kích thước (3,5 x 3) cm và 01 bịch nylong màu trắng có khóa khằn miệng kích thước (6,5 x 5) cm bên trong các bịch đều chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong, ký hiệu B). L khai nhận, chất tinh thể màu trắng là ma túy “đá” của L mang theo để bán.

Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Anh T tại nhà số đường P, phường V, thành phố N, tổ công tác thu giữ một số dụng cụ để sử dụng ma túy (chai nhựa có gắn ống hút) và dụng cụ phân nhỏ ma túy để bán (panh gắp bằng kim loại màu trắng).

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Nhật L tại phòng trọ địa chỉ: đường H, phường H, thành phố N, tổ công tác phát hiện, thu giữ 01 (một) bịch nylong có khóa khằn miệng màu đen kích thước (6x9) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (niêm phong, ký hiệu C) và một số dụng cụ dùng để phân lẻ ma túy (cân điện tử, bịch nylong,…).

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Từ tháng 11 năm 2021, L đến khu vực Lầu Bảy, phường V, thành phố N mua ma túy “đá” của một người nam thanh niên tên thường gọi là “Sang cá chép” (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 3.500.000 đồng/ “một hộp năm” mang về phân lẻ rồi bán lại với giá 1.000.000 đồng/ “một góc tư” và 700.000 đồng/ “một góc tám”. Khi người mua ma túy như Nguyễn Anh T, Nhi, Toàn (chưa rõ nhân thân, lai lịch) gọi vào số điện thoại 0915496…. của L hỏi mua ma túy thì L thỏa thuận giá, hẹn địa điểm và đem ma túy đến bán. Với cách thức như trên, cuối tháng 12 năm 2021, L mua của “Sang cá chép” một hộp năm ma túy “đá” rồi đem về phòng trọ của mình tại địa chỉ đường H, phường H, thành phố N phân lẻ và bán cho người mua ma túy nhằm kiếm lời. Đến chiều ngày 06/01/2022, Tú gọi điện cho L để mua “một góc tám” ma túy “đá” với giá 700.000 đồng. Sau đó, L đến khu vực Lầu Bảy, phường V, thành phố N gặp “Sang Cá Chép” để mua “một hộp năm” ma túy “đá” về phân lẻ “một góc tám” để bán cho T. Số ma túy còn lại L cất giấu tại phòng trọ địa chỉ số đường H, phường H, thành phố N. Sau khi bán ma túy cho T, L lại tiếp tục đến khu vực Lầu Bảy gặp “Sang cá chép” mua “một hộp năm” ma túy “đá” rồi mang về phòng trọ phân thành 03 (ba) bịch ma túy để bán. Đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày, L điều khiển xe máy biển kiểm soát 79N2-640.. mang theo 03 (ba) bịch ma túy “đá” này đến khu vực ngã ba gần nhà hàng Khế Vàng để bán thì bị phát hiện.

Từ tháng 11/2021 Nguyễn Anh T mua ma túy “đá” của Linh và phân lẻ bán cho nhiều người khác như Trần Quốc A, Huỳnh Quốc V và một số người khác không rõ nhân thân, lai lịch với giá 300.000 đồng bịch nhỏ và 1.200.000 đồng/ “một góc tám” ma túy “đá”. Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 06/01/2022, một người nam (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0935775374 gọi vào số điện thoại 0935892539 của T hỏi mua “một góc tám” ma túy “đá” với giá 1.200.000 đồng và hẹn giao ma túy tại vòng xoay đường Hoàng Diệu – đường Nguyễn Đức Cảnh, phường N, thành phố N thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Tại cơ quan Công an, Trần Quốc A, Huỳnh Quốc V khai nhận đã nhiều lần mua ma túy “đá” của Nguyến Anh T để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 49/GĐ-GT/2022 ngày 12/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,5394g (không phẩy năm ba chín bốn gam), là (loại) Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 9,9152g (chín phẩy chín một năm hai gam), là (loại) Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong mẫu ký hiệu C gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9783g (không phẩy chín bảy tám ba gam), là (loại) Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 163/2022/CT-VKS-NT ngày 02 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Lê Nhật L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Truy tố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo Lê Nhật L, Nguyễn Anh T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Nhật L mức 09 đến 10 năm tù; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T mức 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù cùng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước các điện thoại của các bị cáo sử dụng để làm phương tiện phạm tội, và số tiền 2.500.000 đồng là tiền do phạm tội mà có; chuyển cơ quan điều tra Công an thành phố Nha Trang chiếc xe máy hiệu VISION màu đỏ số máy 0755971, số khung 421950 để tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật; tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và các dụng sử dụng cho việc mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy. Tuyên xử lý án phí, quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng kiến đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.

[3] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Lê Nhật L, Nguyễn Anh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản sự việc lập lúc 18 giờ 30 phút ngày 06/01/2021; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu; biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 49/GĐ-GT/2022 ngày 12/01/2022 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

[3.1] Bị cáo Lê Nhật L là người nghiện ma túy. Để có tiền mua ma túy sử dụng, nên từ tháng 11/2021 bị cáo đã nhiều lần mua ma túy của đối tượng “Sang Cá chép” về sử dụng cho bản thân và phân ra bán lại cho nhiều người nghiện ma túy khác để kiếm lời. Trong đó, bị cáo đã bán rất nhiều lần cho Nguyễn Anh T. Quá trình bắt giữ đã thu được của bị cáo 10,8935g (Mười phẩy tám chín ba năm gam) ma túy loại Methamphetamine; thu được của bị cáo T là 0,5394g (không phẩy năm ba chín bốn gam) Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy mà bị cáo L dùng để bán trái phép 11,4329g (Mười một phẩy bốn ba hai chín gam) Methamphetamine.

Như vậy, hành vi mua và bán lại ma túy Lê Nhật L đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b (phạm tội từ hai lần trở lên) và điểm i (ma túy Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam) được quy định khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3.2] Đối với bị cáo Nguyễn Anh T cũng là người nghiện ma túy và cũng giống như bị cáo Lê Nhật L. Do không có tiền để mua ma túy sử dụng nên Tú đã chọn con đường phạm tội là mua trái phép ma túy của Lê Nhật Linh về bán lại cho nhiều người nghiện trong đó có Trần Quốc A, Huỳnh Quốc V. Hành vi mua bán ma túy Nguyễn Anh T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b (phạm tội từ hai lần trở lên) được quy định tại khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Do đó, Cáo trạng số 163/CT-VKSNT ngày 02 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo Lê Nhật L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[5] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước. Các bị cáo nhận thức rõ chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vẫn mua để sử dụng và bán lại cho những người nghiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là một trong những nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác. Về nhân thân, bị cáo L đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Che dấu tội phạm; bị cáo T đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Gây rối trật tự công cộng. Vì vậy, cần phải phải có hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo để cải tạo, giáo dục các bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn, khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo sớm về với gia đình và trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xử án phạt bổ sung mỗi bị cáo 10.000.000 đồng sung ngân sách nhà nước.

[7] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sư:

[7.1] 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh dương, sử dụng số thuê bao 0397710… cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chủ sở hữu anh Nguyễn Hiển Đ đúng quy định. Anh Đ không yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xét (Bút lục 38).

[7.2] 01 (một) xe máy điện màu đỏ đen, biển kiểm soát MĐ1-067.83. Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Diễm M là đúng quy định của pháp luật. Chị M không yêu cầu gì khác, nên Hội đồng xét xử không xét. (BL 50- 51).

[7.3] - 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, sử dụng số thuê bao 09154969.. là của bị cáo Lê Nhật L. Bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, nên là công cụ, phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7.4] - 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng sử dụng số 0935892539 là của bị cáo Nguyễn Anh T, bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, nên là công cụ, phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7.5] Tịch thu số tiền 2.500.000 đồng là tiền do phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

[7.6] - 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu đỏ số máy JF66E0755971, số khung RLHJF5815GY421950 thu giữ của bị cáo L, không có giấy tờ hợp pháp. Vì vậy, cần giao lại cho cơ quan cảnh sát điều tra để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[7.7] - 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, sử dụng số thuê bao 0706004722 là của bị cáo Lê Nhật L, không chứng minh được Linh có sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo L.

[7.8] Các vật chứng sau đây là dụng cụ sử dụng vào việc mua bán, sử dụng ma túy nên cần tích thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong, dán kín có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa ghi chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu B: 9,4983g”.

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong, dán kín có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa ghi chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu C: 0,7536g”.

- 01 (một) chai nước bằng nhựa màu trắng, nắp màu xanh bị đục hai lỗ. Một lỗ có gắn ống hút nước bằng nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh hình bầu tròn.

- 01 (một) panh gắp kim loại màu trắng.

- 01 (một) hộp giấy màu đe kích thước: (13,5 x 6,5 x 3,5) cm.

- 01 (một) cân điện tử màu đen trắng không rõ nhãn hiệu.

- 01 (một) đoạn ống hút nước bằng nhựa màu trắng, một đầu cắt vát nhọn, một đầu được hàn kín dài 09cm.

- 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại màu trắng dài 16cm.

- 01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy gồm: 01 (một) bình thủy tinh, 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) ống hút nước bằng nhựa.

- Nhiều bịch nylong màu đen có khóa khằn miệng màu đen, mỗi bịch kích thước: (6x9) cm bên trong không chứa gì.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Nhật L 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2022. Xử phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2022. Xử phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét phần trách nhiệm dân sự đối với anh Nguyễn Hiển Đ và chị Nguyễn Thị Diễm M.

4. Về xử lý vật chứng:

4.1. Tịch thu sung ngân sách nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, sử dụng số thuê bao 0915496990 của bị cáo Lê Nhật L.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng sử dụng số 0935892539 của bị cáo Nguyễn Anh T.

- Tịch thu số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

4.2. Giao lại cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu đỏ số máy JF66E0755971, số khung RLHJF5815GY421950 để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

4.3. Trả lại cho bị cáo Lê Nhật L 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, sử dụng số thuê bao 0706004722 (không kiểm tra chất lượng bên trong).

4.4. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong, dán kín có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa ghi chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu B: 9,4983g”.

- 01 (một) phong bì giấy được niêm phong, dán kín có chữ ký của giám định viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa ghi chữ: “Mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu C: 0,7536g”.

- 01 (một) chai nước bằng nhựa màu trắng, nắp màu xanh bị đục hai lỗ. Một lỗ có gắn ống hút nước bằng nhựa màu trắng, một lỗ gắn ống thủy tinh hình bầu tròn.

- 01 (một) panh gắp kim loại màu trắng.

- 01 (một) hộp giấy màu đe kích thước: (13,5 x 6,5 x 3,5) cm.

- 01 (một) cân điện tử màu đen trắng không rõ nhãn hiệu.

- 01 (một) đoạn ống hút nước bằng nhựa màu trắng, một đầu cắt vát nhọn, một đầu được hàn kín dài 09cm.

- 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại màu trắng dài 16cm.

- 01 (một) bộ dụng cụ để sử dụng ma túy gồm: 01 (một) bình thủy tinh, 01 (một) ống thủy tinh, 01 (một) ống hút nước bằng nhựa.

- Nhiều bịch nylong màu đen có khóa khằn miệng màu đen, mỗi bịch kích thước: (6x9) cm bên trong không chứa gì.

Số vật tịch thu sung ngân sách nhà nước, trả lại cho bị cáo; tịch thu tiêu hủy và giao lại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/7/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Nha Trang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang; Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số: 3433432 ngày 13/7/2022.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 226/2022/HS-ST

Số hiệu:226/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về