Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 226/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 226/2021/HSST NGÀY 17/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 200/2021/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN XUÂN N (Tên gọi khác: B), sinh ngày: 04/8/1997; Tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: 19/16 N, tổ dân phố 12, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt bắt tạm giữ từ ngày 10/5/2021, hiện bị cáo đang bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Xuân N là đối tượng nghiện ma túy đá (Methamphetamine). Do không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu xài nên bị cáo đã nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Qua mối quan hệ xã hội, bị cáo biết một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) là người bán ma túy thuốc lắc và khay. Khoảng 22 giờ ngày 10/5/2021, một người nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0944.590.305 gọi vào số 0877.679.205 gắn trên điện thoại hiệu Iphone 5 của bị cáo hỏi mua 02 viên thuốc lắc và 01 chấm khay thì bị cáo đồng ý bán với giá 350.000 đồng/01 viên thuốc lắc và 1.300.000 đồng/01 chấm khay, tổng cộng 2.000.000 đồng và hẹn đến khu vực khách sạn T, địa chỉ 33 T, phường T, thành phố B để lấy tiền trước. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2-487.66 đi đến điểm hẹn lấy 2.000.000 đồng rồi gọi điện thoại đến số 0941.091.112 của T mua 02 viên thuốc lắc, 01 chấm khay thì T đồng ý bán 350.000 đồng/01 viên thuốc lắc, 1.200.000 đồng/01 chấm khay, tổng cộng 1.900.000 đồng và hẹn giao ma túy ở khu vực đường Đ, phường T, thành phố B. Bị cáo điều khiển xe đi đến điểm hẹn với T thì gặp một thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch), bị cáo đưa số tiền 2.000.000 đồng, trong đó 1.900.000 đồng tiền mua ma túy, còn 100.000 đồng thu lợi từ việc bán ma túy dùng để trả nợ cho T thì được người này đưa cho 01 gói nylon bên trong chứa 02 viên thuốc lắc và 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Bị cáo cầm ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đến khu vực khách sạn T để bán. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang đứng đợi để giao ma túy thì bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói nylon bên trong chứa 06 mảnh viên nén màu xám (do 2 viên nén bể ra) và 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định của pháp luật).

Tại Kết luận giám định số 533/GĐMT- PC09 ngày 19/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2933 gam, loại Ketamine.

- 06 (sáu) mảnh chất rắn màu xám đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,9854 gam, loại MDMA Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2317 gam Ketamine;

0,9325 Tại bản cáo trạng số 236/CT-VKS TP.BMT ngày 09 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Xuân N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng số 236/CT-VKS TP.BMT ngày 09 tháng 7 năm 2021, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân N phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

2015 - Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân N từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù.

* Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 0,2317 gam ma túy Ketamine và 0,9325 gam ma túy MDMA còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 533/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy;

- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu đen, gắn sim số 0877.679.205 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2-487.66, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, số loại Air Blade, dung tích xi lanh: 108, số máy JF27E0553955, số khung RLHJF180XAY532940 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội;

- Truy thu số tiền 100.000 đồng mà bị cáo thu lợi được từ việc bán ma túy.

Bị cáo, không có ý kiến tranh luận gì thêm chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm chứng cứ tài liệu gì, bị cáo cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 10/5/2021 tại khu khu vực trước khách sạn T, địa chỉ: 33 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Xuân N có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ trên người bị cáo 0,2933 gam ma túy loại Ketamine và 0,9854 gam ma túy loại MDMA.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà.

[3]. Lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, chứng minh đầy đủ các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như vậy quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Xuân N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Xuân N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đồng thời còn gây mất ổn định trị an xã hội và nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, đồng thời còn là nguyên nhân dẫn đến làm lan truyền các căn bệnh xã hội khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được rằng, ma túy là loại độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Song, do lối sống buông thả, không lành mạnh, nghiện ngập muốn có tiền mua ma túy để sử dụng, nên bị cáo đã thực hiện việc mua bán ma túy để nhầm mục đích kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Vì vậy, đối với bị cáo cần có mức án đủ nghiêm và buộc cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ tính chất giáo dục và răn đe.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Xuân N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo là phù hợp;

Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai mua của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) ở đường Đ, phường T, thành phố B và có một nam thanh niên lạ mặt (không rõ nhân thân, lai lịch) giao ma túy giúp T, sau đó bị cáo bán ma túy cho nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của các đối tượng nên tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, xử lý sau.

[4]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đây mà bị cáo được hưởng cần áp dụng trong khi lượng hình, để giảm nhẹ một phần hình phạt, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[5]. Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 0,2317 gam ma túy Ketamine và 0,9325 gam ma túy MDMA còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 533/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy;

- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu đen, gắn sim số 0877.679.205 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2-487.66, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, số loại Air Blade, dung tích xi lanh: 108, số máy JF27E0553955, số khung RLHJF180XAY532940 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội;

- Truy thu số tiền 100.000 đồng mà bị cáo thu lợi được từ việc bán ma túy.

[6]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân N 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày 10/5/2021.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy đối với 0,2317 gam ma túy Ketamine và 0,9325 gam ma túy MDMA còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 533/GĐMT- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án;

- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu đen, gắn sim số 0877.679.205 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen, biển kiểm soát 47B2-487.66, loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3, số loại Air Blade, dung tích xi lanh: 108, số máy JF27E0553955, số khung RLHJF180XAY532940 là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội;

- Truy thu số tiền 100.000 đồng mà bị cáo thu lợi được từ việc bán ma túy.

(Tang vật có đặc điểm như trong biên bản giao nhân vật chứng giữa Cơ quan Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột ngày 15/7/2021).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Xuân N phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 226/2021/HSST

Số hiệu:226/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về