Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 214/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐB, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 214/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 223/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 đối với các Bị cáo:

1. Họ và tên: Quàng Văn T; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 2001 tại Điện Biên; Nơi thường trú: Bản N H, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Quàng Văn H; sinh năm 1978 và Con bà: Lò Thị N; sinh năm 1979; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 07/5/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Đặng Đình N; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1989 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Thôn 2, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đặng Đình Quỳnh (đã chết) và Con bà: Trần Thị Á; sinh năm 1965; Vợ: Lò Thị H; sinh năm 1994; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 11/7/2010 Bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xử phạt 05 tháng 10 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 15/2010/HSST và được tuyên trả tự do ngay tại phiên toà. Bị cáo đã được xóa án tích nhưng Bị cáo có nhân thân xấu.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 07/5/2022, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 06/5/2022 Quàng Văn T đi bộ một mình từ nhà ở Bản N H, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên mục đích đi tìm mua hồng phiến về để bán kiểm lời. Khi đi Bị cáo mang theo 80.000 đồng. Khi đi đến khu vực đường đầu bản N H, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 30 tuổi (Bị cáo không biết tên, địa chỉ) đang đứng ở khu vực ven đường, Bị cáo có hỏi người đàn ông đó là: “Có Hồng phiến bản không?”. Người đàn ông đó trả lời: “Có, mua bao nhiêu tiền?”. Bị cáo trả lời: “Bán cho 80.000 đồng?”. Sau đó Bị cáo lấy từ trong người ra 80.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền, rồi đưa lại cho Bị cáo 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu đen, miệng gói được xoắn lại, Bị cáo cầm lấy và mở ra xem thấy bên trong gói có 10 viên Hồng phiến màu hồng, xem xong Bị cáo gói lại như cũ rồi đồng ý mua. Mua bán ma túy xong người đàn ông đó đi đâu Bị cáo không biết. Bị cáo cất giấu gói Hồng phiến vừa mua được vào trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ quay về nhà. Về đến nhà Bị cáo cởi chiếc quần bên trong túi quần bên trái có gói Hồng phiến đó ra rồi treo ở bên cạnh giường ngủ của Bị cáo, rồi sinh hoạt bình thường. Đến khoảng 09 giờ 40 phút ngày 07/5/2022 Bị cáo đi bộ một mình từ nhà ra khu vực đường giữa bản N H, xã P L, huyện Đ B thì gặp Đặng Đình N nhà ở cùng bản N H, xã P L, huyện Đ B với Bị cáo. N hỏi Bị cáo là: “Có Hồng phiến bán không?”. Bị cáo trả lời là: “Có, em có 10 viên Hồng phiến bán giá 200.000 đồng, anh chờ em ở đây em đi về nhà lấy” N đồng ý. Sau đó Bị cáo đi bộ quay về nhà và lấy gói Hồng phiến được gói bên ngoài bằng nilon màu đen, miệng gói được xoắn lại, bên trong có 10 viên Hồng phiến của Bị cáo, cất giấu ở túi quần bên trái, đang treo ở cạnh giường ngủ ra, rồi cất giấu gói hồng phiến đó vào túi quần bên phải đang mặc, đi bộ ra chỗ N chờ, rồi lấy gói Hồng phiến cất giấu ở túi quần bên phải đang mặc ra đưa cho N, N cầm lấy gói Hồng phiến của Bị cáo đưa cho và mở ra xem, xem xong N gói lại như cũ và cầm gói Hồng phiến ở bên tay trái rồi đồng ý mua. Sau đó N lấy tiền từ người ra 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng đưa cho Bị cáo, Bị cáo cầm tiền của N đưa cho rồi cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc. T và N vừa mua bán Hồng phiến xong thì lúc đó có tổ công tác Công an huyện Đ B và Công an xã P L, huyện Đ B đến giữ N và T lại để kiểm tra. Qua kiểm tra Đặng Đình N thì tổ công tác phát hiện, thu giữ tại tay trái của N đang cầm có 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu đen, miệng gói được xoắn lại, mở bên trong có 10 viên Hồng phiến, trên một mặt của tất cả các viên hồng phiến đều có chữ WY. Đặng Đình N khai nhận các viên nén màu hồng đó là Hồng phiến của N, N vừa mua của Quàng Văn T người đang đứng cạnh N với số tiền 200.000 đồng về mục đích để sử dụng. Đồng thời tổ công tác kiểm tra Quàng Văn T thì phát hiện, thu giữ tại túi quần bên phải của T đang mặc có số tiền 200.000 đồng. Quàng Văn T khai nhận số tiền 200.000 đồng mà tổ công tác thu giữ là tiền của T, T vừa bán Hồng phiến cho Đặng Đình N là người đang đứng cạnh T mà có được. Với nội dung trên tổ công tác đã mời người chứng kiến đến và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N và T và niêm phong thu giữ toàn bộ vật chứng theo đúng quy định của pháp luật. Sau đó tổ công tác đưa T về nhà và thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Quàng Văn T. Qua khám xét không phát hiện, thu giữ gì, tổ công tác đã lập biên bản theo quy định. Sau đó tổ công tác đưa T và N cùng toàn bộ hồ sơ vật chứng vụ án đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B để điều tra làm rõ.

Ngày 07/5/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ của Đặng Đình N như sau: Toàn bộ số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng: 1,02 gam gửi toàn bộ giám định, hoàn lại vật chứng sau giám định là 0,74 gam.

Ngày 08/5/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ B đã tiến hành trưng cầu giám định số tiền 200.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng có số mã hiệu QA 14666346 thu giữ của Quàng Văn T.

Tại bản kết luận giám định số: 662/KL - KTHS ngày 15/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu các viên nén màu hồng là vật chứng thu giữ của Đặng Đình N gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số: 655/KL - KTHS ngày 13/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng có số mã hiệu: QA 14666346 thu giữ của Quàng Văn T gửi giám định là tiền thật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Tại bản cáo trạng số: 138/CT-VKSĐB ngày 18/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Đặng Đình N về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn T: Từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Đình N: Từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các Bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,74 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng là tiền do bị cáo Quàng Văn T phạm tội mà có.

* Về án phí: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa các Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố và không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B.

Lời nói sau cùng của các Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Các Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, các Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các Bị cáo để các Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các Bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Quàng Văn T, Đặng Đình N khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với các Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 07/5/2022 tại Bản N H, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, Quàng Văn T đã thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng 1,02 gam nhằm kiếm lời. Đặng Đình N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 1,02 gam. Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Quàng Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Đình N đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các bị cáo Quàng Văn T, Đặng Đình N là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Đặng Đình N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Về tính chất của vụ án: Hành vi mua ma túy sau đó bán lại cho người khác để thu được số tiền 200.000 đồng của bị cáo Quàng Văn T là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo Đặng Đình N là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với các Bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe các Bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Các Bị cáo Quàng Văn T, Đặng Đình N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân:

+ Đối với bị cáo Quàng Văn T: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi ăn học hết lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Ngày 13/02/2020, Bị cáo đi thực hiện N vụ quân sự trong lực lượng bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên và công tác tại Đồn biên phòng Mường Mươn, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên. Đến ngày 13/01/2022 thì xuất ngũ trở về địa phương cho đến nay. Bị cáo chưa xây dựng gia đình. Bị cáo không sử dụng chất ma túy.

Ngày 07/5/2022 Bị cáo bị Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma tuý Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.

+ Đối với bị cáo Đặng Đình N: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện Đ B, tỉnh Điện Biên và được gia đình nuôi ăn học học hết lớp 12/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Năm 2014 kết hôn với chị Lò Thị Hồng, sinh năm 1994 và có 01 người con chung sinh năm 2015.

Ngày 11/7/2010 Bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xử phạt 05 tháng 10 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 15/2010/HSST và được tuyên trả tự do ngay tại phiên toà. Bị cáo đã được xóa án tích nhưng Bị cáo có nhân thân xấu.Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2021.

Ngày 07/5/2022 Bị cáo bị Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma tuý Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đ B ra Quyết định khởi tố Bị can và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Bị can theo quy định của pháp luật.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với các Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Đối với phần án phí: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Quàng Văn T và Đặng Đình N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. HĐXX thấy rằng trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo Quàng Văn T có địa chỉ cư trú tại: Bản N H, xã P L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên là thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số, theo Quyết định số: 433/QĐ- UBDT ngày 18/6/2021 thì bị cáo Quàng Văn T được miễn án phí HSST. Việc Kiểm sát viên đề nghị buộc bị cáo Quàng Văn T phải chịu án phí HSST như vậy là chưa chính xác. HĐXX xét thấy cần phải miễn án phí HSST cho Bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”; do đó các Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các Bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập từ làm ruộng, làm tự do thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt đối với các Bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng gồm: 0,74 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ; đối với số tiền 200.000 đồng do bị cáo Quàng Văn T đã bán ma tuý cho bị cáo Đặng Đình N mà có, vì vậy cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước. theo quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về các vấn đề khác: Bị cáo Quàng Văn T khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Quàng Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST. Tuy nhiên Bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên toà Bị cáo xin miễn án phí HSST. Vì vậy theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo Quàng Văn T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Đặng Đình N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về kháng cáo: Các Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (07/5/2022).

* Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Đình N phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo: 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (07/5/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các Bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,74 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền là: 200.000 đồng là tiền do bị cáo Quàng Văn T phạm tội mà có.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/7/2022 giữa Công an huyện Đ B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Miễn án phí HSST cho bị cáo Quàng Văn T; Buộc bị cáo Đặng Đình N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự các Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 214/2022/HS-ST

Số hiệu:214/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về