TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 21/2023/HS-PT NGÀY 24/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 12/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2023/HS-ST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn Q, tên gọi khác: Nhí; sinh năm: 1987 tại tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: Tổ 5, khu vực 4, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968 và bà Võ Thị Kim L, sinh năm 1967; có vợ Phạm Thị Bích Th, Sinh năm 1989 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
- Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Văn Q: Ông Vũ Xuân H – Luật sư Văn phòng luật sư Huy H, Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Chí Th, Đoàn Nhật K, Mai Anh T1, Võ Duy T, Ngô Huỳnh Diễm K, Nguyễn Quang Tr và Nguyễn Khắc Đ nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17h00 ngày 09/10/2021, Nguyễn Văn C đang ở nhà tại thôn L - xã X - huyện Đ gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Q đang ở thành phố Q - tỉnh Bình Định để hỏi mua ma túy về sử dụng. Q đồng ý. C chuyển khoản số tiền 2.500.000 đồng cho Q qua số tài khoản của Nguyễn Thi Bích H (trong đó 2.200.000 đồng là tiền mua ma túy và 300.000 đồng là tiền Q vận chuyển ma túy đi giao). Sau đó, C gọi điện thoại cho Nguyễn Khắc Đ đang lái xe tải để nhập cây keo tại Khu công nghiệp P thuộc xã P - thành phố Q để nhờ Đ nhận ma túy từ Q mang về cho C. Đ đồng ý. Đến khoảng 19h00 cùng ngày, Q đến Khu công nghiệp P giao 0,749g ma túy loại Methamphetamine cho Đ và Đ điều khiển xe ô tô tải BKS: 77C-028.12 (xe của Nguyễn Phước Th) mang số ma túy nói trên về giao cho C. Cùng thời điểm này, C gọi điện thoại rủ Nguyễn Chí Th đi nhận ma túy cùng với C. Th đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS: 78K1-236.32 (xe của Ngô Thị Trúc L) đến gặp C. C điều khiển xe mô tô nói trên chở Th đến trước cổng Công ty TNHH B thuộc thôn S - xã X để chờ lấy ma túy. Đến khoảng 21h30 cùng ngày, C nhận ma túy từ Đ và đưa cho Th cầm còn mình điều khiển xe mô tô chở Th quay về nhà ở thôn L thi bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ bắt quả tang.
Tại Bản kết luận giám định số 290/GĐ-PC09 ngày 13/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,749g là ma túy, loại Methamphetamine.
Ngoài lần bị bắt quả tang nêu trên, quá trình điều tra đủ căn cứ xác định Nguyễn Văn C đã 02 lần mua ma túy của Nguyễn Văn Q để bán lại cho người khác. Cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất. Khoảng 08h00, một ngày trong tháng 7/2021, C điều khiển Xe Ô Tô BKS: 78A-069.30 (xe của Lê Bảo H) chở khách từ xã X ra thành phố Q. Lúc này, C gọi điện thoại cho Q để hỏi mua ma túy, Q đồng ý. Đến khoảng 12h30 cùng ngày, khi C đang dừng xe tại ngã ba P thuộc phường T - thành phố Q thì Q đến gặp C nhận 2.000.000 đồng và giao ma túy cho C. Sau đó, C điều khiển xe mang ma túy về xã X.
- Lần thứ hai: Khoảng 12h00' ngày 23/8/2021, C gọi điện thoại cho Q để hỏi mua ma túy và hai bên thống nhất giá mua bán ma túy là 2.000.000 đồng, C chuyển khoản số tiền trên cho Q. Đến khoảng 21h00 cùng ngày, C gọi điện thoại cho Nguyễn Khắc Đ để nhờ Đ nhận ma túy. Đ đồng ý nên C chuyển khoản cho Đ số tiền 200.000 đồng (qua số tài khoản của Trần Thị N). Sau đó, Đ gọi điện thoại cho Q để nhận ma túy tại tuyến đường Quốc lộ 19C đoạn qua xã C - huyện V - tỉnh Bình Định. Đến khoảng 09h00 ngày 24/8/2021, Đ điều khiển xe ô tô tải BKS: 77C- 028.12 mang ma túy đến giao cho C trên đường Quốc lộ 19C đoạn qua xã C - huyện V.
Sau khi mua được ma tuý từ Q, C đã phân nhỏ ma túy và bán cho các đối tượng cụ thể như sau:
- Bán cho Đoàn Nhật K và Võ Duy T hai lần, cụ thể:
+ Lần thứ nhất: Khoảng 19h00" một ngày trong tháng 7/2021, sau khi liên lạc với C để mua ma tuý với giá 1.000.000 đồng thì T chở K đến cây xăng L - xã X để nhận ma tuý và K trả tiền cho C. Sau khi nhận được ma tuý, cả hai thống nhất đến nhà vợ của T ở khu phố L - thị trấn L- huyện Đ (T và vợ đang sinh sống tại đây) cùng sử dụng ma tuý. Khi đến nơi, K và T cùng nhau sử dụng hết số ma tuý vừa mua được.
+ Lần thứ hai: Khoảng 20 giờ ngày 18/9/2021, sau khi K mua ma tuý từ C với giả 1.000.000 đồng thì K gọi cho T để rủ T đến nhà vợ của T cùng nhau sử dụng ma tuý. T lúc này đang ở nhà vợ một mình nên đồng ý. Sau đó, K mang ma tuý đến và cả hai cùng nhau sử dụng hết số ma tuý đã mua được của C.
Ngoài hai lần mua ma tuý từ C như đã nêu trên thì đầu tháng 9/2022, K đã trực tiếp đến thành phố T mua ma tuý với giá 700.000 đồng từ một đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch để về sử dụng một mình. Đến 11h30 ngày 28/9/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ tiến hành khám xét và thu giữ 0,153g ma tuý loại Methamphetamine cùng một số dụng cụ để sử dụng ma tuý tại nhà của K.
Tại Bản kết luận giám định số 360/GĐ-PC09 ngày 04/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định có khối lượng 0,153g là ma túy, loại Methamphetamine.
- Bán cho Mai Anh T1 và Nguyễn Chí Th 05 lần: Khoảng tháng 7/2021, T1 thống nhất mua ma túy của C 05 lần, với số tiền 500.000 đồng/01 lần. T1 là người bỏ tiền ra mua ma túy rồi nhờ Th chở T1 đi lấy ma túy 02 lần và T1 một mình đi lấy ma túy 03 lần. Số ma túy này T1 và Th cùng nhau sử dụng hết tại nhà của T1 ở thôn L - xã X 04 lần, sử dụng tại đám keo gần nhà của T1 01 lần. Đến ngày 09/10/2021, T1 nhờ Phạm Minh N chuyển khoản cho C số tiền 2.000.000 đồng và tự mình trả cho C 500.000 đồng.
Ngoài ra, trong tháng 9/2021, Th còn tự bỏ tiền ra mua ma túy về sử dụng một mình 05 lần với số tiền 500.000 đồng/01 lần. Trong đó, Ngô Huỳnh Diễm K là vợ của C biết việc C mua bán trái phép chất ma túy nhưng vẫn đồng ý mang ma tuý đi giao cho Th 03 lần. Còn lại, C giao cho Th 02 lần.
- Bán cho Nguyễn Đình L 01 lần: Khoảng 19h00 ngày 03/10/2021, Nguyễn Đình L mượn điện thoại của Phan Văn S gọi cho Nguyễn Quang Tr để nhờ Tr mua ma tuy với giá 500.000 đồng. Tr đồng ý và gọi điện thoại cho C giới thiệu, yêu cầu C bán ma tuý cho L. Sau khi được Tr thông báo lại là có ma tuý, L điều khiển xe mô tô đến gặp Tr tại thôn P - xã X 3. Lúc này, Tr đưa số điện thoại của C cho L và chỉ dẫn L đến xã X để lấy ma tuý. Sau khi nhận ma tuý, L sử dụng một mình hết số ma tuý này.
- Bản cho Nguyễn Quang Tr và Dương Thành H 02 lần: Trong hai ngày 22/7/2021 và ngày 07/9/2021, Tr, H đã cùng nhau góp số tiền 1.700.000 đồng để mua ma tuý từ C 02 lần. Sau đó Tr, H cùng nhau đến nhà C lấy ma tuy và cùng nhau về sử dụng chung cho đến hết số ma tuý mua được từ C. Ngoài 02 lần góp tiền để mua ma tuý nói trên thì từ tháng 7-9/2021 Dương Thành H và Nguyễn Quang Tr còn tự bỏ tiền ra mua ma tuý của C về sử dụng một mình. H mua 04 lần với giá 2.700.000 đồng, Tr mua 02 lần với giá 1.000.000 đồng. Trong 02 lần Tr mua ma tuý thì có một lần vào ngày 22/9/2021, sau khi giao dịch mua ma tuý xong thi Tr nhờ Mạnh Phi H đi lấy ma tuý giúp. H đến gặp C nhận ma tuý về đưa cho Tr rồi đi về nhà.
- Ngoài những lần bán ma tuý cho những đối tượng nêu trên thì từ tháng 7- 10/2021, Nguyễn Văn C còn bán ma tuý cho các đối tượng khác nhiều lần với số tiền cụ thể như sau: Lê Việt H 07 lần/4.500.000 đồng, Hà Văn Th 02 lần/ 800.000 đồng, Phạm Quốc Tr 03 lần/1.490.000 đồng (trong đó Tr nhờ Nguyễn Phúc H chuyển khoản cho C 490.000 đồng), Lương Vĩnh Đ 07 lần/3.600.000 đồng. Lê Đình P 02 lần/700.000 đồng. Tất cả những đối tượng này sau khi nhận ma tuý từ C đều dùng để sử dụng một mình.
Tại Bản kết luận giám định số 301/GĐ. PC09 ngày 25/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên, kết luận: Trong nước tiểu của Nguyễn Văn C, Nguyễn Chí Th, Đoàn Nhật Kh, Nguyễn Quang Tr, Hà Văn Th, Lương Vĩnh Đ có thành phần chất ma tuy loại Methamphetamine.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2023/HS-ST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên đã tuyên bị cáo: Nguyễn Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; phạt: Nguyễn Văn Q 08 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Chí Th, Đoàn Nhật K, Mai Anh T1, Võ Duy T, Ngô Huỳnh Diễm K, Nguyễn Quang Tr và Nguyễn Khắc Đ; xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/01/2023, bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù;
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Q thay đổi kháng cáo kêu oan và không thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Văn Q trình bày lời bào chữa: Tại phiên toà, bị cáo Q không nhận tội, bị cáo khai việc bị cáo nhận tội tại cơ quan điều tra là do sợ bị bắt giam. Việc bị cáo C chuyển tiền qua số tài khoản của em ruột bị cáo là tiền bị cáo C trả nợ chứ không phải là tiền mua bán ma tuý. Trong phần nhận định bản án sơ thẩm có mâu thuẫn về số lần mua bán ma tuý đối với C là 2 lần và đối với Q là 3 lần. Những vấn đề trên chưa được cấp sơ thẩm điều tra làm rõ nên đề nghị HĐXX huỷ một phần bản án sơ thẩm để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Mặc dù tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, bị cáo kêu oan không nhận tội và cho rằng bị ép cung, do sợ bị bắt giam nên mới khai nhận hành vi phạm tội theo ý của điều tra viên. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, truy tố bị cáo đều khai rõ hành vi phạm tội, cam kết lời khai tại cơ quan điều tra, Viện kiểm sát là đúng. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có đơn kháng cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo C và Đ về thời gian, địa điểm, cách thức giao dịch mua bán ma tuý, nhận và chuyển tiền mua ma tuý; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án như giao dịch chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng, các cuộc gọi đến, gọi đi giữa bị cáo Q với bị cáo C và giữa bị cáo Q với bị cáo Đ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2021 đến trước ngày 09/10/2021, Nguyễn Văn C đã 02 lần mua ma tuý loại Methamphetamine của Nguyễn Văn Q ở thành phố Q - tỉnh Bình Định với giá 4.000.000 đồng mang về nhà ở thôn L - xã X bán cho những người khác trên địa bàn huyện Đ kiếm lời. Đến ngày 09/10/2021, C tiếp tục mua 0,749g ma túy loại Methamphetamine của Q với giá 2.500.000 đồng và nhờ Đ vận chuyển đến cổng Công ty TNHH Bình Nam thuộc thôn S – xã X - huyện Đ. Đến khoảng 21h30’ cùng ngày, khi C và Th đang nhận ma tuý từ Đ để đem về nhà sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ bắt quả tang. Do đó cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước, là nguyên nhân, mầm mống làm phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự trị an – an toàn xã hội ở địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và trí tuệ của người sử dụng. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Phạm tội hai lần trở lên”, là tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Khi lượng hình, án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để xử phạt bị cáo 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù là phù hợp.
[3] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo và ý kiến đề nghị huỷ một phần bản án sơ thẩm của Luật sư bào chữa cho bị cáo mà chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên – Giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo.
[4] Bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Về Hình phạt: Áp dụng Điểm b, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
Phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 21/2023/HS-PT
Số hiệu: | 21/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về