Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 210/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 210/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 171/2023/TLST - HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2023/QĐXXST - HS ngày 05/9/2023 đối với bị cáo:

Bùi Đức M1, tên gọi khác: không ; sinh ngày xx/x/19xx, tại thành phố H, tỉnh Q; Nơi cư trú: tổ x, khu x, phường C1, thành phố H, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 7/12; dân tộc: kinh; Giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Trọng Q1 và bà Nguyễn Thị G1; có vợ Lưu Thị L1 và 01 con; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 20/5/2023, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt.

Người làm chứng: Lê Tiến Đ1.

Người chứng kiến:Nguyễn Văn A1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 20 giờ 50 phút ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại nhà Bùi Đức M1 thuộc tổ x, khu x, phường C1, thành phố H, tỉnh Q, Bùi Đức M1 có hành vi bán trái phép 3,59 gam ma túy, loại Cần sa, với giá 600.000 đồng cho Lê Tiến Đ1. Ngoài ra M1 còn có hành vi tàng trữ 26, 037 gam ma túy, loại Cần sa cũng nhằm mục đích để bán.

Vật chứng thu giữ của Lê Tiến Đ1 04 túi nilon chứa thực vật khô; thu giữ trong túi vải màu đen Bùi Đức M1 đang đeo 02 túi nilon bên trong chưa thực vật khô, thu tại túi quần bên phải M1 đang mặc 01 cân diện tử mini, số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu vàng; thu trong phòng ngủ của gia đình M1 01 túi nilon bên trong chứa 04 túi nilon chứa thực vật khô; 01 lọ thủy tinh bên trong có 02 túi nilon đều chứa chất thực vật khô và 03 vỏ túi nilon.

Kết luận giám định số: 652/KL - KTHS ngày 27/5/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh Q, kết luận: Mẫu vật ký hiệu từ M1 đến M4 thu giữ của Lê Tiến Đ1 gửi giám định là ma túy; loại: Cần sa, tổng khối lượng 3,59 gam.

Mẫu vật ký hiệu từ M5 đến M12 thu giữ trong người và chỗ của Bùi Đức M1 gửi giám định, là ma túy; Loại: Cần sa, tổng khối lượng: 26,037 gam.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đức M1 có lời khai phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội như sau: Bị cáo sử dụng ma túy loại cần sa từ năm 2020. Do không có công việc làm ổn định bị cáo nảy sinh ý định mua cần sa về bán kiếm lời. Ngày 17/5/2023, bị cáo đến khu vực đường Lĩnh Nam, quận M2, thành phố Hà Nội, gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết, tự giới thiệu tên T2 04 túi cần sa với giá 2.000.000 đồng. Trên đường về bị cáo vào chợ Vườn Đào, thành phố H mua 01 cân điện tử mini và một số vỏ túi nilon, mục đích để về cân , chia nhỏ ma túy bán. Tối ngày 19/5/2023, bị cáo đã bán 04 túi ma túy cho Lê Tiến Đ1 với giá 600.000 đồng, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu trong người và trong nhà mục đích để bán, chưa kịp bán thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Người làm chứng Lê Tiến Đ1 có lời khai tố giác hành vi phạm tội của bị cáo như sau: vào khoảng 20 giờ 10 phút ngày 19/5/2023 tại phòng khách nhà Bùi Đức M1 , Đ đã mua của M1 04 túi ma túy cần sa với giá 600.00 đồng để sử dụng, sau đó Đ cất giấu trong người đi tìm nơi sử dụng đến khoảng 21 giờ 40 phút khi Đ đến đoạn đường thuộc tổ 9, khu 4 phường Trần Hưng Đạo, thành phố H,tỉnh Quảng ninh, thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ vì có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Người chứng kiến anh Nguyễn Văn A1 có lời khai xác nhận: Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 19/5/2023 tại tổ 9 khu 4 phường Trần Hưng Đạo, thành phố H, tỉnh Q anh được chứng kiến Công an thành phố H kiểm tra Lê Tiến Đ1 , và thu giữ của Đ 04 túi nilon bên trong chứa chất thực vật khô và Đ khai nhận với Công an là 04 túi ma túy cần sa Đ cất giấu để sử dụng.

Bản cáo trạng số: 171/CT-VKSHL ngày 28 tháng 8 năm 2023 của Viện KSND thành phố H truy tố bị cáo Bùi Đức M1 tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên trình bày luận tội, đưa ra các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạntù tính từ ngày tạm giữ 20/5/2023; không Áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 28,95 gam cần sa; 01 cân điện tử mini, 01 lọ thủy tinh, 03 vỏ túi nilon.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động Iphone màu vàng, kèm 01 sim. Truy thu của bị cáo M1 100.000 đồng.

Những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án: Đối với đối tượng tên T2 bán ma túy cho M1, do không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Tiến Đ1, quá trình điều tra chứa đủ căn cứ để xử lý hình sự. Công an thành phố H Quyết định xử phạt hành chính.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh t ng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ t c quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp và người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành Tố tụng, người tiến hành Tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan tiến hành Tố tụng, người tiến hành Tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản khám xét; biên bản thu thập dữ liệu điện tử; kết luận giám định; bản luận tội Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa. Với những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 50 phút ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại nhà Bùi Đức M1 thuộc tổ 6, khu 4, phường C1, thành phố H, tỉnh Q, Bùi Đức M1 có hành vi bán trái phép 3,59 gam ma túy, loại Cần sa, với giá 600.000 đồng cho Lê Tiến Đ1. Ngoài ra M1 có hành vi tàng trữ 26, 037 gam ma túy, loại Cần sa mục đích để bán. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, không những gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương mà còn tiếp tay cho những đường dây mua bán ma túy và làm gia tăng các loại tội phạm khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma túy nhưng không có ý thức chấp hành pháp luật đã mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi đó đã thỏa mãn dấu hiệu và đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự, tội phạm có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; Nội dung luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS):

Về nhân thân: bị cáo phạm tội lần đầu, chưa tiền sự, tiền án.

Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật cải tạo, giáo dục mình thành công dân tốt.

Về tình tiết tăng nặng TNHS: không.

[4] Căn cứ vào quy định Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ TNHS, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, nhằm giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời góp phần giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự bị cáo còn có thể bị Áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng sử dụng ma tuý, không có công việc, không có thu nhập nên không Áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Lượng ma túy 28,95 gam cần sa hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành ; 01 cân điện tử mini ; 01 lọ thủy tinh, 03 vỏ túi nilon là công cụ , phương tiện dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng ; tịch thu tiêu hủy;

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone dùng vào việc phạm tội và số tiền 500.000 đồng do phạm tội mà có, tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Biện pháp tư pháp : Ngày 19/5/2023 bị cáo bán trái phép cho Lê Tiến Đ1 01 gói ma túy cần sa thu được 600.000 đồng, bị cáo sử dụng chi tiêu hết 100.000 đồng còn lại 500.000 bị thu giữ cùng với vật chứng của vụ án. Số tiền 100.000 đồng là do phạm tội mà có tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường v Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Đức M1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Đức M1 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20 tháng 5 năm 2023.

Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 28,95 (hai mươi tám phảy chín lăm) gam ma túy, loại Cần sa ; 01 (một) cân điện tử mini ; 03 (ba) vỏ túi nilon ; 01 (một) lọ thủy tinh.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone kèm 1 (một) sim. Tình trạng vật chứng được thi hành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 258/BB - THA, ngày 15/9/2023 giữa Công an thành phố H và Chi c c THA dân sự thành phố H và Biên bản giao nhận tài sản số 332/2023/BBBG – CQCSĐTCATPHL ngày 06/6/2023 giữa công an thành phố H và Kho bạc Nhà nước tỉnh Q.

Biện pháp tư pháp: bị cáo Bùi Đức M1 nộp lại số tiền 100.000 đồng; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Bùi Đức M1 phải chịu 200.000 đồng.

Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 210/2023/HS-ST

Số hiệu:210/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về