Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 207/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 207/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị T, sinh năm 1986 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: Đội 3, thôn T, xã T (nay là khu dân cư 5, tổ dân phố 4, thị trấn T), huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 0/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; cha không rõ, mẹ tên Nguyễn Thị X (đã chết); chồng tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1996; có 02 con sinh lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; bị cáo có 01 anh sinh năm 1982; tiền án: Bản án hình sự số 151/2019/HSST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/7/2020, nộp án phí ngày 24/10/2019; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Trần Minh T. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Châu Minh D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị T là người sử dụng trái phép chất ma túy từ đầu năm 2021, loại Methamphetamine. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 20/01/2022, Nguyễn Thị T đang ở phòng trọ tại 119/4, tổ 4, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì có người phụ nữ tên H (không rõ nhân thân) gọi điện thoại đến nhờ mua giúp 2.000.000đ ma túy đá và hẹn giao tại cây xăng 68, đường M. Sau đó, Nguyễn Thị T đón xe mô tô chở khách đến khu vực cầu H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua của người đàn ông tên X (không rõ nhân thân) 4.100.000đ ma túy đá được đựng trong 01 túi nylon miệng kéo dính. Nguyễn Thị T mang về phòng trọ chia thành 02 túi nylon miệng kéo dính và 01 gói nylon miệng hàn kín để bán kiếm lời. Sau đó, T lấy 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng và 01 nỏ thủy tinh quấn khăn giấy bên ngoài, bỏ vào trong một hộp bánh Slide hình tròn đậy nắp kín và để trên baga phía trước của xe mô tô biển số 63V3-7699 của T. Đến khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, Nguyễn Thị T dùng điện thoại di động hiệu Vivo 1820 gọi điện cho Trần Minh T ra điểm hẹn để giao hộp bánh trên baga xe của T cho H. Khi Trần Minh T đến trước cây xăng 68, đường M, khu phố Đ, phường T, thành phố D để giao cho H thì bị tổ tuần tra Công an phường T phối hợp Công an thành phố D kiểm tra bắt quả tang, thu giữ tang vật. Sau đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Thị T tại phòng trọ thu giữ 01 túi nylon miệng kéo dính, 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng thu của Trần Minh Trọng (M1);

- 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng (M2-1) và 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (M2-2); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 kéo; 01 cân tiểu ly, 01 túi kéo màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1820 sim 1 số 0899356373, sim 2 số 0965456753; 01 xe mô tô Wave biển số 63V3-7699 số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389; 01 hộp bánh hiệu Slide.

Căn cứ Kết luận giám định số 99/MT-PC09 ngày 27/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy M1 có khối lượng 3,8656gam; M2-1 khối lượng 4,8891gam; M2-2 khối lượng 0,3375gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy là 9,0922gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 99/MT-PC09 ngày 27/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với xe mô tô Wave biển số 63V3-7699 số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389 do bị cáo mua lại không có giấy tờ. Qua xác minh xác định được xe mô tô biển số 63V3-7699 không phải là biển số đăng ký của xe mô tô kiểu dáng Wave số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389. Xe mô tô biển số 63V3-7699 có số máy P52FMH*022756, số khung DCH033TT*022756 của anh Lê Thành H đứng tên trong giấy đăng ký mô tô xe máy và đã bán lại cho người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Đối với số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389 không xác định được chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu nhưng không có người đến nhận.

Đối với người phụ nữ tên H mua ma túy hiện chưa rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An xác minh xử lý sau.

Đối với Trần Minh T được T nhờ đi giao ma túy cho H nhưng không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An không xử lý.

Tại Cáo trạng số 213/CT -VKS ngày 31 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 02 bì thư đã được niêm phong ghi số 99/PC09 bên trong chứa khối lượng ma túy còn lại sau giám định kèm 01 túi kéo màu đỏ được niêm phong cùng ma túy; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 kéo; 01 cân tiểu ly; sim số 0899356373, sim số 0965456753; 01 hộp bánh hiệu Slide.

Đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước điện thoại di động hiệu Vivo 1820 và xe mô tô Wave biển số 63V3-7699 số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, trong phần nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của người chứng kiến, người làm chứng, biên bản khám xét và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định: Nguyễn Thị T có hành vi tàng trữ 9,0922gam ma túy loại Methamphetamine để bán lại cho những người nghiện khác nhằm mục đích kiếm lời. Ngày 20/01/2022, bị cáo nhờ Trần Minh T đi giao ma túy cho H (không rõ nhân thân) thì bị bắt. Qua khám xét nhà của bị cáo còn thu giữ ma túy và cân tiểu ly là dụng cụ bị cáo dùng để phân chia ma túy thành các liều nhỏ để bán lại cho người nghiện. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 213/CT -VKS ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam tư lợi bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 29/5/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/7/2020, nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội mới là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người, nghiện ma túy có nhân thân xấu.

[7] Xử lý vật chứng:

Xét 02 bì thư đã được niêm phong ghi số 99/PC09 bên trong chứa khối lượng ma túy còn lại sau giám định kèm 01 túi kéo màu đỏ được niêm phong cùng ma túy cần tịch thu tiêu hủy;

Xét 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 kéo; 01 cân tiểu ly; sim số 0899356373, sim số 0965456753; 01 hộp bánh hiệu Slide, là vật chứng trong vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

Xét điện thoại di động hiệu Vivo 1820 và xe mô tô Wave biển số 63V3- 7699 số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389, bị cáo Nguyễn Thị T sử dụng phạm tội cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[8] Đối với người phụ nữ tên H mua ma túy hiện chưa rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[9] Đối với Trần Minh T được bị cáo nhờ đi giao ma túy cho H nhưng không biết bên trong hộp bánh là ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D không xử lý là đúng quy định.

[10] Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, nhân thân xấu, bị nghiện ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[11] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, mức hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ sức giáo dục, cải tạo, đồng thời bị cáo là người nghiện, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[12] Mức hình phạt, xử lý vật chứng như Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[13] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2022.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy bì thư đã được niêm phong ghi số 99/PC09 M1 bên trong chứa 3,5047gam khối lượng ma túy còn lại sau giám định và số 99/PC09 M2 bên trong chứa M2-1 là 4,6891gam, M2-2 là 0,2567gam khối lượng ma túy còn lại sau giám định kèm 01 túi kéo màu đỏ được niêm phong cùng ma túy; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 kéo; 01 cân tiểu ly; sim số 0899356373, sim số 0965456753; 01 hộp bánh hiệu Slide.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước điện thoại di động hiệu Vivo 1820 và xe mô tô Wave biển số 63V3-7699 số máy HC09E5145513 số khung RLHHC0905Y09389.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 207/2022/HS-ST

Số hiệu:207/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về