Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 202/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 202/2020/HS-PT NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Tạ Đặng N bị xét xử sơ thẩm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

* Bị cáo có kháng cáo:

Tạ Đặng N (tên gọi khác: Tạ Đăng N); sinh ngày 21/10/1993; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn NV, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc; giới tính: N; quốc tịch: Việt N; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Tạ Đình H và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lê Thị Diệu H và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/4/2019 đến nay, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Tạ Đặng N: Luật sư Nguyễn Anh Đ, Hoàng Thị H - Công ty luật TNHH IMC thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; đều có mặt.

Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Thành L không kháng cáo, không bị kháng nghị; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 45 phút ngày 23/4/2019, tổ công tác Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện tại sân nhà nghỉ Làng Việt, tổ 22, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên có 01 xe ôtô màu đỏ nhãn hiệu Hyundai Accent BKS 88A- xxxxx trong xe có 03 nam thanh niên, tiến hành kiểm tra xe ôtô thì 01 nam thanh niên bỏ chạy, Tổ công tác đã giữ được 02 người gồm: Nguyễn Thành L và Tạ Đặng N. L khai nhận trên người đang cất giấu ma túy và tự giao nộp túi ni lon màu vàng đang cầm ở tay phải bên trong có 06 túi nilon màu trắng, trong các túi đều chứa các cục chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu L). Ngoài ra còn tạm giữ của L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen (niêm phong ký hiệu L1), 01 xe ôtô màu đỏ nhãn hiệu Hyundai Accent BKS 88A-xxxxx.

Ngày 24/4/2019, cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của L và N tại thôn Trung K, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc, phát hiện thu giữ: Tại tủ quần áo buồng ngủ của L 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa cục chất bột màu trắng (niêm phong ký hiệu là K1), 01 cân điên tử màu trắng nhãn hiệu UNIWEIGH; không phát hiện và thu giữ gì tại nơi ở của N.

Tại Kết luận giám định chất ma túy số 702 và số 707 ngày 02/5/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu L1 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin, khối lượng gửi giám định là 4,388 gam, khối lượng thu giữ ban đầu là 225,952 gam; chất bột màu trắng trong mẫu K2 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin, khối lượng gửi giám định là 6,705 gam, khối lượng thu giữ ban đầu là 37,727 gam.

Quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo như sau: Khoảng tháng 2/2019, Nguyễn Thành L gặp và quen người tên là Thắng, nhà ở Thái Nguyên (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể), Thắng nói chuyện với L nếu có ma túy mang lên Thái Nguyên bán thì Thắng sẽ mua, hai người cho nhau số điện thoại để liên lạc. Ngày 22/4/2019, Thắng điện thoại cho L đặt mua ma túy, loại hêrôin, L đồng ý và hẹn khi nào có ma túy sẽ thông báo lại. Khoảng 11 giờ ngày 23/4/2019, L cầm theo số tiền là 120.000.000 đồng đến khu vực Công ty Honda, thuộc thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc điện thoại cho một người tên là Kết (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể, L chỉ nhớ số điện thoại của Kết có ba số cuối có đuôi 197), khi gặp Kết, L đưa cho Kết số tiền 120.000.000 đồng và Kết đưa cho L 08 túi ma túy, loại hêrôin có tổng khối lượng là 263,679 gam, mua được ma túy L mang về nơi ở của mình cất giấu. Sau đó L điện thoại cho Thắng thỏa thuận bán cho Thắng 06 túi hêrôin, với số tiền là 140.000.000 đồng và hẹn địa điểm mua bán ma túy tại thành phố Thái Nguyên. Khoảng 16 giờ cùng ngày L lấy ra 06 túi ma túy cho vào chiếc túi nilon màu vàng cất giấu tại vị trí cốp tỳ tay giữa ghế lái và ghế phụ xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent BKS 88A-xxxxx của mình rồi điều khiển xe ôtô đến rủ Tạ Đặng N, là bạn cùng xã với L đi Thái Nguyên. Trên đường đi L nói cho N biết mục đích đi Thái Nguyên để bán ma túy và hứa sẽ chia cho N một nửa số tiền lãi khi bán được ma túy, N mở cốp tỳ tay lấy túi nilon màu vàng trong có 06 gói ni lon chứa hêrôin ra xem, xong cất túi ma túy vào vị trí cũ. Khi L, N đi đến địa phận thành phố Thái Nguyên, L điện thoại cho Thắng, Thắng nói sẽ gọi lại cho L sau giờ kết quả sổ số. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Thắng điện thoại cho L bảo đi đến khu vực ga Thái Nguyên để giao dịch mua bán ma túy, L điều khiển xe ôtô đến khu vực trên rồi điện thoại cho Thắng, một lúc sau Thắng đến lên xe ôtô của L và ngồi ở hàng ghế sau, Thắng hỏi ma túy để ở đâu, L lấy từ trong cốp tỳ tay ra túi ma túy đưa cho Thắng, Thắng lấy ra một ít ma túy để sử dụng, kiểm tra rồi bảo L điều khiển xe ôtô đến nhà nghỉ Làng Việt để mua bán ma túy. Khi xe ôtô đến sân nhà nghỉ Làng Việt thì bị cơ quan điều tra phát hiện, truy đuổi, Thắng bỏ chạy thoát.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thành L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Đối với Tạ Đặng N: Ngay sau khi bị bắt giữ, N khai: “Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019 khi đang ở nhà tại thôn NV, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc thì có L đến và rủ đi Thái Nguyên. L nói với N có ít hàng (N biết hàng ở đây là ma túy) rồi rủ N đi cùng đến Thái Nguyên đế bán, lãi bao nhiêu thì L sẽ chia cho N một ít tiền. N đồng ý và lên xe đi cùng L. Khoảng gần 18 giờ cùng ngày xe đến khu vực Đồng Hỷ, Thái Nguyên cả hai xuống xe nghỉ ngơi, uống nước. N thấy L nghe điện thoại của ai đó rồi L bảo N đi đến khu vực ga Thái Nguyên để đón người này. Khi đến nơi có một nam thanh niên (N không quen biết) lên xe ôtô. Người này hướng dẫn L, N đến nhà nghỉ Làng Việt, khi vừa đến nơi thì L và N bị Cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ lại, còn thanh niên kia chạy thoát. Quá trình kiểm tra L đã tự giác giao nộp 01 túi nilon màu vàng trong chứa 06 túi nilon màu trắng trong đều chứa chất bột màu trắng, L khai là ma túy hêrôin”. Nhưng sau đó, N thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi giúp sức cho L mua bán trái phép chất ma túy, N nại ra lý do mình bị say bia, nên khai không đúng và khai L chỉ rủ N đi Thái Nguyên chơi, không biết việc L đi bán ma túy.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt Tạ Đặng N (Tạ Đăng N) 20 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối bị cáo Nguyễn Thành L, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/12/2019, bị cáo Tạ Đặng N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tạ Đặng N quanh co chối tội, thể hiện ở việc mặc dù đơn kháng cáo bị cáo cho rằng hình phạt cấp sơ thẩm quyết định là nặng nên xin giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo lại khai là bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bị oan, còn đơn kháng cáo là do cán bộ quản giáo hướng dẫn mặc dù bị cáo không bị ai ép buộc. Bị cáo khai tại phiên tòa là quá trình tạm giam cùng các đối tượng tên T2, K, N bị cáo không nói chuyện gì với họ nhưng khi Luật sư hỏi thì bị cáo lại khai là bị cáo có nói với họ là bị bắt vì đi cùng L nhưng không biết L đem theo ma túy.

Luật sư bào chữa cho bị cáo N cho rằng, tài liệu chứng cứ, lời khai của bị cáo L, N và những người làm chứng có nhiều mâu thuẫn, quá trình ghi lời khai, hỏi cung bị cáo có nhiều vi phạm, các tài liệu chứng cứ mà Viện kiểm sát dùng để kết tội bị cáo có nhiều vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội luận tội, trích dẫn các tài liệu, các lời khai của các bị cáo, của những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án chứng tỏ việc bị cáo N có được L nói về việc đem ma túy đi bán và N đồng ý đi cùng nên N đồng phạm với L và phải chịu trách nhiệm hình sự cùng L với khối lượng ma túy mà L đem đi bán là 225,952 gam hêrôin; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo phản cung, chối tội và không được hưởng tình tiết giảm nhẹ gì mới nên đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Tạ Đặng N không thừa nhận hành vi phạm tội. Tuy nhiên, qua quá trình tranh tụng kết hợp xem xét các lời khai của bị cáo L, của bị cáo N và của những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án, HĐXX thấy rằng: L có quen biết với N từ lâu, không có mâu thuẫn gì trong cuộc sống. L khai”: “Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019, L điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A-xxxxx một mình đi từ nhà đến nhà Tạ Đăng N (là bạn của tôi) để rủ anh N đi Thái Nguyên... Khi đi cách nhà N khoảng 1km thì N hỏi tôi đi Thái Nguyên có việc gì thì tôi nói với N đi Thái Nguyên để bán ma túy và hứa sẽ cho N một nửa số tiền lãi nếu như bán được ma túy, N không nói gì. Tôi chở N đi lên đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai hướng từ Lào Cai đi Hà Nội thì N hỏi tôi ma túy để ở đâu, tôi báo N ma túy để ở cốp tỳ tay giữa ghế lái và ghế phụ, N có lấy ra xem, tôi bảo N cất đi không camera giao thông soi thấy, N cất ma túy vào chỗ cũ...”.

Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 19) N khai: “Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019 có anh Nguyễn Thành L sinh năm 1991 nhà ở thôn Trung K, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc đến rủ tôi đi Thái Nguyên để bán ma túy kiếm lời, chúng tôi cùng đi xe ô tô nhãn hiệu Hyundai Accent màu đỏ BKS 88A- xxxxx do anh L điều khiển. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày chúng tôi đến ga Thái Nguyên để đón khách mua ma túy. Khi đón được khách chúng tôi thống nhất đến nhà nghỉ Làng Việt thuộc phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên để giao dịch bán ma túy... thì bị bắt”.

Tại bản tự khai (BL 131) N khai: “Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019 khi tôi đang ở nhà tại thôn NV, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc thì có anh Nguyễn Thành L sinh năm 1991 nhà ở thôn Trung K, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc đến rủ tôi đi Thái Nguyên, anh L nói với tôi là có ít hàng (tôi biết hàng ở đây là ma túy) rồi rủ tôi đi cùng đi đến Thái Nguyên để bán chỗ hàng này. Khi bán được lãi bao nhiêu thì anh L sẽ chia cho tôi một ít tiền...”.

Tại Biên bản ghi lời khai (BL142) N khai: “Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019 khi tôi đang ở nhà tại thôn NV, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc thì có anh Nguyễn Thành L sinh năm 1991 nhà ở thôn Trung K, xã Đ, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc đến rủ tôi đi Thái Nguyên, anh L nói có ít hàng (tôi biết hàng ở đây là ma túy) rồi rủ tôi đi cùng đến Thái Nguyên để bán được lãi bao nhiêu thì anh L sẽ chia cho tôi một ít tiền...”. Nhưng về sau, N thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi giúp sức cho L mua bán trái phép chất ma túy, N nại ra lý do mình bị say bia, nên khai không đúng và khai L chỉ rủ N đi Thái Nguyên chơi, không biết việc L đi bán ma túy. Tuy nhiên, quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của những người làm chứng khi lập biên bản bắt người phạm tội quả tang là ông Phạm Văn C (BL 198 đến 202) và anh Nguyễn Văn L (BL 203 đến 207) đều khai N ở trạng thái tỉnh táo không có biểu hiện say bia rượu; lời khai của anh Tạ Ngọc T1 là người cùng ngồi uống bia với N trưa ngày 23/4/2019 xác định N uống ít hoàn toàn tỉnh táo không có biểu hiện say bia (BL 244- 245); Lời khai của chị Tạ Thị Thu Th là người bán hàng ăn sáng cho N đều xác định N không có biểu hiện say bia rượu (BL246- 247); anh Nguyễn Xuân Tr khai N uống ít bia và hoàn toàn tỉnh táo” (BL 252, 253); chị Lê Thị Diệu H (là vợ N) khai “Khoảng 13 giờ ngày 23/4/2019, khi chồng tôi là anh N đi uống bia về tôi thấy N hoàn toàn tỉnh táo, không say rượu hay bia vì tôi thấy chồng tôi vẫn nói chuyện bình thường” (BL 249).

Tại đơn tố giác tội phạm của Nguyễn Hồng T là người cùng bị tạm giữ tại buồng C3 nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Nguyên với N khai “Tôi được nghe N kể rằng trên đường đi với L ngày 23/4/2019 N có biết việc L mang ma túy (hêrôin) lên thành phố Thái Nguyên để bán và có biết việc L gọi điện cho người mua ma tuý ở Thái Nguyên”. Ngoài ra T còn khai “nghe thấy việc N nói với N là đừng khai gì với cơ quan công an và không ký vào các loại biên bản gì” (BL 214).

Tại Bản tường trình của Phạm Văn K là người cùng bị tạm giữ tại buồng C3, K khai “Khi N mới chuyển vào thì có T hỏi N tên là gì, nhà ở đâu, bắt vì tội gì thì N nói tên của mình, nhà ở Vĩnh Phúc bị bắt về tội buôn bán ma túy. T hỏi N là đi với ai thì N nói đi với bạn cùng xe, khi đi nửa đường thì mới biết bạn đi cùng giao hàng (ma túy)” (BL 225) Tại Bản tự khai của Trần Văn N là người cùng bị tạm giữ tại buồng C3, N khai “Vào khoảng 1 giờ ngày 24/4/2019 có thêm anh Tạ Đăng N nhà ở Vĩnh Phúc được đưa vào buồng. Khi vào anh T hỏi N phạm tội gì, anh N trả lời tên là N nhà ở Vĩnh Phúc tội ma túy. Cụ thể là đi cùng bạn tên là L mang ma túy sang Thái Nguyên bán thì bị bắt ở nhà nghỉ Làng Việt... Sáng hôm sau tôi có hỏi thêm: N có biết L mua bán ma túy không N trả lời có” (BL 236). N cũng thừa nhận với cơ quan điều tra về việc đã nói với N không nhận tội và không ký vào biên bản. Bản tự khai của N tại BL 235 N khai “Sau vài lần nói chuyện với N, tôi thấy N biết việc L đến TP Thái Nguyên để bán ma túy”.

Như vậy, mặc dù Tạ Đặng N lúc đầu nhận tội sau đó phản cung; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo cho rằng hình phạt 20 năm tù là quá nặng, đề nghị giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo lại kêu oan. Tại cơ quan điều tra, bị cáo cho rằng: Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 19); Bản tự khai (BL 131); Biên bản ghi lời khai (BL 142) bị cáo đã khai nhận tội là do say bia. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo lại cho rằng bị cáo bị ép cung, bức cung. Tuy nhiên qua xem xét hồ sơ vụ án và chính lời khai của bị cáo (BL 163), Tạ Đặng N khai “Trong tất cả các buổi làm việc với Cơ quan điêu tra, tôi (N) đều làm việc trong trạng thái tỉnh táo, sức khỏe bình thường. Những gì khai báo trước cơ quan điều tra đều là tự nguyện, không bị ai đánh đập hay ép buộc, xúc phạm gì. Bản thân tôi đã khai báo thành khẩn, mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật”. Trước khi ký, bị cáo còn tự ghi “Tôi đã đọc lại biên bản và ghi đúng như tôi khai”.

Đánh giá những lời khai ban đầu của bị cáo N phù hợp, thống nhất với lời khai của bị cáo L và các lời khai của các nhân chứng khác cho thấy những lời khai đó hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, Biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định chất ma túy... Việc bị cáo nại ra việc say bia hoặc bị ép cung chỉ thể hiện sự ngoan cố nhằm trốn tránh trách nhiệm của bị cáo. Qua xem xét đánh giá toàn diện vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Thành L mua hêrôin của một người tên là Kết (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) sau đó L đã cùng với Tạ Đặng N đem ma túy từ huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc sang phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên để bán cho một người tên là Thắng (không rõ họ, tên đệm, địa chỉ), L nói với N khi bán xong sẽ chia một phần lãi cho N. Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2019 L điều khiển xe ôtô nhãn hiệu Hyundai Accent màu đỏ BKS 88A-xxxxx cùng với Tạ Đặng N mang theo 225,952 gam hêrôin đến nhà nghỉ Làng Việt, tổ 22, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên để bán thì bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ, thu vật chứng. Khám xét nơi ở của L cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ được 37,727 gam hêrôin. Như vậy, khối lượng hêrôin mà Tạ Đặng N phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy là 225,952 gam.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã xét xử bị cáo Tạ Đặng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự, với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo L là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

Cấp sơ thẩm cũng đã đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, Điều 17, Điều 58 BLHS, xử phạt bị cáo Tạ Đặng N 20 năm tù, phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng là phù hợp, đúng pháp luật.

Tại cấp phúc thẩm bị cáo N không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì mới, cũng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt như đơn kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tạ Đặng N (Tạ Đăng N); Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 69/2019/HS-ST ngày 292/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

2. Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tạ Đặng N (Tạ Đăng N) 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo Tạ Đặng N 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

3. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Tạ Đặng N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án, ngày 20/5/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 202/2020/HS-PT

Số hiệu:202/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về