TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh T xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2024/TLST - HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2024/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 3 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1991 tại xã Y, huyện Yên Định, tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn L, xã Y, huyện Yên Định, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn K, sinh năm 1958 và bà: Trịnh Thị M, sinh năm 1960; Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; vợ là Phạm Ngọc A, sinh năm 2002, có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2023.
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:
- Ngày 28/9/20.., bị Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 08/12/20.., bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Thủy, tỉnh T xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 12 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 24 tháng tù. Do bị cáo có kháng cáo và sau đó rút đơn kháng cáo. Ngày 24/02/20.., Tòa án nhân dân tỉnh T đình chỉ xét xử phúc thẩm.
- Ngày 21/01/20.., bị Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh T xử phạt 30 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Ngày 28/7/20.., bị Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh T xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
(Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ các bản án trên) Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/10/2023 đến ngày 14/10/2023 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Yên Định, tỉnh T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Cao Duy H, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1990 tại xã Thuận Minh, huyện R, tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn 1 Yên Lược, xã Thuận Minh, huyện R, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cao Duy Đ, sinh năm 1953 và bà: Vũ Thị H, sinh năm 1955; Gia đình bị cáo có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 6; vợ là Dương Thị N, sinh năm 1986, có 01 con, sinh năm 2017.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 21/3/20.., bị Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Thanh Hóa quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 12 tháng (Bị cáo đã chấp hành xong quyết định) Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/10/2023 đến ngày 14/10/2023 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Yên Định, tỉnh T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Ông Lê Đình T, sinh năm 1965 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Yên Định, tỉnh T.
2. Anh Thiều Văn N, sinh năm 1987 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn B 1, xã Y, huyện Yên Định, tỉnh T.
3. Anh Trịnh Hữu T, sinh năm 1981 (Vắng mặt).
4. Chị Phạm Ngọc A, sinh năm 2002 (Vắng mặt).
5. Bà Trịnh Thị M, sinh năm 1960 (Vắng mặt).
Đều trú tại; Thôn L, xã Y, huyện Yên Định, T.
6. Ông Ngô Xuân H, sinh năm 1967 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố 4, TT, huyện R, tỉnh T.
7. Ông Ngô Xuân H, sinh năm 1967 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Xóm T, xã N, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 8 giờ 05 phút ngày 05/10/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Định, tỉnh T phối hợp với Công an xã Y, huyện Yên Định, tỉnh T tiến hành tuần tra kiểm soát trên địa bàn xã đã phát hiện và bắt quả tang tại khu vực nghĩa trang thuộc địa phận thôn T, xã Y, Cao Duy H đang cầm ở bàn tay pH 01 túi nilon màu trắng viền đỏ bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng ngà (nghi là ma túy). Khai thác nhanh tại chỗ, H khai nhận: Chất bột màu trắng ngà nêu trên là ma túy, loại heroin, H vừa mua của A (thường gọi là A Kiệm), sinh năm 1991, ở thôn L, xã Y, huyện Yên Định với giá 500.000đ để sử dụng. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ các vật chứng nêu trên và 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen, bên trong có gắn sim với số thuê bao 0984 099 xxx.
Trên cơ sở lời khai nhận của Cao Duy H, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Tuấn A. Kết quả khám xét đã phát hiện ở bàn tay trái của Nguyễn Tuấn A đang cầm 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đ; ở cầu thang từ tầng một lên tầng hai tại bậc thang thứ 7 của cầu thang có 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng ngà (nghi là ma túy); tại bậc thang thứ 11 có hai mảnh giấy màu trắng, loại giấy ô ly có bám dính chất bột màu trắng ngà; ở khu vực đối diện cửa phòng ngủ của Nguyễn Tuấn A có 01 mảnh giấy kim loại bám dính muội khói đen và thu giữ 1 điện thoại di động Nokia 105 màu đen bên trong có gắn 02 sim với số thuê bao 0355 492 xxx và 0988 811 xxx. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tuấn A đồng thời thu giữ, niêm phong các vật chứng liên quan theo quy định (BL 01-06).
Tại bản kết luận giám định số 3652/KL-KTHS ngày 11/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:
- Các cục chất bột màu trắng ngà thu giữ khi khám xét của Nguyễn Tuấn A, có khối lượng 0,034 g gửi giám định là ma túy, loại heroin.
- Các cục chất bột màu trắng ngà thu giữ của Cao Duy H, có khối lượng 0,117 g gửi giám định là ma túy, loại heroin.
- Tìm thấy chất ma túy, loại heroin trong muội khói đen bám dính trên mảnh giấy kim loại và 02 mảnh giấy màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Tuấn A (BL 15-16) Kết luận giám định số 3704/KL-KTHS ngày 13/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: 02 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng tiền Việt Nam gửi giám định là tiền mặt (BL số 24).
Qúa trình điều tra đã chứng minh: Ngày 02/10/2023, do có người hỏi mua ma túy nên Nguyễn Tuấn A đã đi đến khu vực cầu Điền Hộ, xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh T gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, người nhỏ gầy, cao khoảng 1.6m, tóc dài, bịt khẩu trang mua 900.000đ ma túy về chia nhỏ bán kiếm lời. Sáng ngày 05/10/2023, H dùng số điện thoại 0984 099 xxx gọi vào số điện thoại 0355 492 xxx của A để hỏi mua bán ma túy thì A đồng ý. Sau đó, A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 36C-xxx, Cao Duy H điều khiển 01 xe mô tô nhãn hiệu Jupiter màu xanh biển kiểm soát 37X2-xxx đến khu vực bờ kênh Cửa Đạt thuộc địa phận thôn L, xã Y, huyện Yên Định. Tại đây, H đưa cho A 500.000đ, A đưa cho H 01 túi nilon màu trắng viền đỏ bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà là ma túy, loại heroin. H cầm túi nilon bên trong chứa ma túy vừa mua của A đi về hướng xã Y, huyện Yên Định để sử dụng thì bị bắt quả tang như nêu trên. Số ma túy thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Tuấn A, A khai cất giữ với mục đích bán kiếm lời (BL số 197-202, 205-215, 245- 257).
Qúa trình điều tra, Nguyễn Tuấn A và Cao Duy H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định ma túy, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Kết quả xác minh về tài sản, thu nhập thì thấy A và H không có tài sản và thu nhập (BL 194, 226) Về vật chứng vụ án gồm:
- Đối với xe nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 36C-xxx thuộc quyền sở hữu riêng của chị Phạm Ngọc A, sinh năm 2002, ở thôn L, xã Y, huyện Yên Định; xe mô tô nhãn hiệu Jupiter màu xanh biển kiểm soát 37X2-xxx thuộc quyền sở hữu của ông Ngô Xuân H, sinh năm 1967 ở xóm T, xã N, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh N. Chị Ngọc Anh và ông Hậu đều không biết A, H sử dụng xe để mua và bán ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chủ sở hữu.
- Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,101 g chất bột màu trắng ngà (đã giám định là ma túy, hoại heroin) của phong bì mặt trước ghi “Cao Duy H”; 0,025g chất bột màu trắng ngà (đã giám định là ma túy, loại heroin) của phong bì mặt trước ghi “khám xét” được niêm phong trong 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Trần Thị Thúy Hằng, Lê Minh Tiến và Lê Văn Cao cùng các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T;
- 01 điện thoại di động Nokia 105 màu đen, bên trong có gắn sim với số thuê bao 0984.099.xxx đã qua sử dụng.
- 01 điện thoại di dộng Nokia 105 màu đen, bên trong có gắn sim với số thuê bao 0355 492 xxx và 0988 811 xxx, đã qua sử dụng;
- Phong bì mặt trước ghi “tiền Nguyễn Tuấn A” đã mở niêm phong bên trong có 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000đ và phong bì mặt trước ghi “Cao Duy H M2” đã mở niêm phong bên trong có 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000đ (đã giám định là tiền thật). Tất cả được niêm phong trong 01 phong bì được niêm phong mặt trước có chữ “CÔNG AN TỈNH THANH HÓA – PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ”, “- SỐ…”; mặt sau phong bì đóng 05 dấu tròn của “Công an tỉnh T”, “Phòng kỹ thuật hình sự”, 02 chữ ký họ tên Lê Thị Hồng, 02 chữ ký của Hà Huy Hiếu.
Số vật chứng trên hiện đang được bảo quản, chờ xử lý theo quy định.
Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKSYĐ ngày 19/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định đã truy tố Nguyễn Tuấn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự và Cao Duy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo Nguyễn Tuấn A và Cao Duy H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Cao Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh Tuấn từ 30 tháng đến 33 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05/10/2023;
Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Cao Duy H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05/10/2023;
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;
Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, 01 sim số thuê bao 0984 099 xxx, 01 sim số thuê bao 0355 492 xxx và 01 sim số thuê bao 0988 811 xxx; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
02 điện thoại Nokia 105 màu đen, điện thoại đã qua sử dụng của A và H và 02 tờ tiền Việt Nam đồng đều có mệnh giá 500.000đ; Về án phí: Thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận: Các bị cáo thống nhất với quan điểm luận tội và không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo nói lời sau cùng, nhận thấy hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo mức án thấp nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của người tiến hành tố tụng và quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Định; hành vi của Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh:
Tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Tuấn A và Cao Duy H đã hoàn toàn thừa nhận: Vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 05/10/2023, tại Thôn L, xã Y, huyện Yên Định, tỉnh T, Nguyễn Tuấn A đã có hành vi bán 0,117 gam ma túy, loại heroin với giá 500.000đ cho Cao Duy H để sử dụng. Tuy nhiên, H chưa sử dụng thì bị bắt quả tang khi đang cầm ma túy ở bàn tay pH. Ngoài ra, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Tuấn A đã thu giữ 0,034 gam ma túy, loại heroin, A cất giấu nhằm mục đích bán kiếm lời.
Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định ma túy cũng như các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Nguyễn Tuấn A bán trái phép 0,117 gam ma túy, loại heroin cho Cao Duy H sử dụng và cất giấu 0,034 gam ma túy loại heroine mục đích để bán kiếm lời đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015; Cao Duy H mua 0,117 gam ma túy, loại heroin của A để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị công an bắt quả tang đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Định truy tố các bị cáo về tội danh trên, đề nghị HĐXX áp dụng điều luật là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Đây là vụ án mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy đều có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hậu quả của việc bị cáo Nguyễn Tuấn A bán chất ma túy cho Cao Duy H cũng như sẽ dùng để bán chất ma túy cho những người khác đã ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần pH áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
Bị cáo Nguyễn Tuấn A có nhân thân xấu, đã từng nhiều lần bị các Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy”…và đều pH chấp hành án tại nơi giam giữ. Tuy nhiên, Nguyễn Tuấn A đã không lấy đó làm bài học để sửa chữa, rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục tìm kiếm ma túy về sử dụng cũng như bán cho các con nghiện khác kiếm lời phục vụ lợi ích cá nhân của mình; Đối với bị cáo Cao Duy H là đối tượng đã bị Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng. Nhưng bị cáo không quyết tâm, kiên trì từ bỏ con đường ma túy mà vẫn tiếp tục nghiệp ngập và mua ma túy của Nguyễn Tuấn A về để sử dụng.
Vì vậy, cần xem xét để lên mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong qúa trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo A có bố mẹ là người có công với cách mạng, bố bị cáo H là thương binh được tặng huân huy chương kháng chiến. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[5] Đối với người đàn ông ở gần cầu Điền Hộ thuộc địa phận xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh T bán ma túy cho Nguyễn Tuấn A. Qúa trình điều tra, A không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với mẫu vật ma túy còn lại sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật là vật Nhà nước cấm lưu hành nên pH tịch thu tiêu hủy;
Đối với 01 sim số thuê bao 0984 099 xxx, 01 sim số thuê bao 0355 492 xxx và 01 sim số thuê bao 0988 811 xxx của Nguyễn Tuấn A và Cao Duy H lắp trong 02 điện thoại Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng, là công cụ để các bị cáo liên lạc trao đổi mua bán ma túy, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 02 điện thoại Nokia 105 màu đen của A và H là công cụ thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp.
Đối với 02 tờ tiền Việt Nam đồng đều có mệnh giá 500.000đ, là tiền bị cáo H mua ma túy của bị cáo A cũng như tiền bị cáo H có ý định dùng vào mục đích để mua ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[7] Về án phí: Các bị cáo bị kết án, không thuộc trường hợp được miễn án phí nên pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Căn cứ vào Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ vào Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Cao Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về mức hình phạt:
Áp dụng: Khoản 1 Điều 251, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn A 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05/10/2023.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Cao Duy H 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05/10/2023.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Số ma túy hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, mặt trước phong bì ghi vụ: CA Yên Định TC 262 ngày 06/10/2023, mặt sau được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Minh Tiến, Trần Thị Thúy Hằng, Lê Văn Cao và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh T; 01 sim số thuê bao 0984 099 xxx, 01 sim số thuê bao 0355 492 xxx và 01 sim số thuê bao 0988 811 xxx;
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:
+ 02 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, điện thoại đã qua sử dụng của bị cáo A và H;
+ 02 tờ tiền Việt Nam đồng đều có mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) đựng trong gói phong bì mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Lê Thị Hồng, Hà Huy Hiếu và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.
Các vật chứng trên được lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định theo phiếu nhập kho số NK 37 ngày 27 tháng 02 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.
4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Tuấn A và Cao Duy H, mỗi bị cáo pH nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người pH thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về