Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 185/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 185/2022/HS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 195/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 191/2022/QĐXXST-HS ngày 19/8/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000; HKTT: Thôn Th, xã V, huyện Q, tỉnh B; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Bố đẻ là Nguyễn Văn Qu, sinh năm 1971; Mẹ đẻ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1971; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Không;

- Tiền sự:

+ Ngày 30/11/2020 bị Công an huyện Q, tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền với mức phạt 1.500.000 đồng. Ngày 20/11/2021 chấp hành xong việc nộp phạt.

+ Ngày 22/12/2020 bị TAND huyện Q, tỉnh B Quyết định áp dụng biện báp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 12 tháng, đến ngày 31/12/2021 chấp hành xong trở về địa phương.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh B, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 21 giờ 45 phút ngày 05/5/2022 tại khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố B đã bắt quả tang Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1998 với số tiền 500.000 đồng để kiếm lợi nhuận.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ tại tay phải của Th1 (sinh năm 1998) đang cầm 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng và 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong chứa 02 (hai) viên nén màu đỏ; Thu giữ tại tay trái của Th (sinh năm 2000) đang cầm 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; Thu giữ tại phía trước ngực Th (sinh năm 2000) đang đeo 01 (một) túi giả da màu đen, bên trong túi giả da chứa 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon màu trắng có chứa 10 (mười) túi nilon màu trắng nhỏ hơn, trong đó 09 (chín) túi nilon màu trắng đều chứa bên trong các chất tinh thể màu trắng, 01 (một) túi nilon màu trắng chứa bên trong 04 (bốn) viên nén màu đỏ. Lực lượng Công an cho vào phong bì thư niêm phong dán kín đúng quy định của pháp luật, ký hiệu M1, M2, M3. Thu giữ của Th (sinh năm 2000) một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh, đã qua sử dụng.

Ngày 06/5/2022, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Th (sinh năm 2000) tại thôn Th, xã V, huyện Q, tỉnh B, kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại Kết luận giám định số: 595/KL-KTHS ngày 08/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: “+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0355 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine;

+ 02 (hai) viên nén màu đỏ bên trong phong bì thư ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0491 gam; Không phải là ma tuý;

+ Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M3 gửi giám định có khối lượng 0,4389 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine;

+ 04 (bốn) viên nén màu đỏ bên trong phong bì thư ký hiệu M3 gửi giám định có khối lượng 0,0834 gam; Không phải là ma tuý;

+ 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng có số sê-ri VS 05219727 bên trong phong bì thư ký hiệu M2 gửi giám định là tiền thật”.

Tại cơ quan CSĐT Công an thành phố B, Th (sinh năm 2000) khai nhận như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 05/5/2022, Th (sinh năm 2000) nảy sinh ý định mua ma túy tổng hợp về bán lại kiếm lợi nhuận nên đi bộ từ nhà tại thôn Th, xã V, huyện Q, tỉnh B đến khu vực xã Phương Liễu, huyện Q, tỉnh B để tìm mua ma túy. Khi đến nơi Th (sinh năm 2000) gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua 2.000.000 đồng ma tuý của người này, người này đồng ý. Th (sinh năm 2000) đưa cho người này số tiền 2.000.000 đồng, người này cầm lấy và đưa lại cho Th (sinh năm 2000) một túi nilon màu trắng bên trong chứa 12 túi nilon màu trắng, trong đó 10 túi nilon màu trắng đều chứa bên trong các chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon màu trắng chứa bên trong 04 viên nén màu đỏ, 01 túi nilon màu trắng chứa bên trong 02 viên nén màu đỏ. Th (sinh năm 2000) biết đấy là ma tuý tổng hợp nên cầm lấy và cất giấu số ma tuý trên vào 01 chiếc túi giả da màu đen đeo sẵn trước ngực (Th không biết trong số ma túy vừa mua được nêu trên có lẫn ma túy giả). Sau đó Th (sinh năm 2000) gọi taxi (Th không quen biết người lái xe taxi, không nhớ biển số hay hãng xe taxi) đi về rủ bạn là Nguyễn Văn Minh lên thành phố B chơi. Khi đi đến khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B thì Th (sinh năm 2000) bảo lái xe taxi dừng lại. Lúc này có 01 nam thanh niên Th (sinh năm 2000) không quen biết (sau khi bị bắt mới biết người này tên là Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1998). Lúc này Th1 (sinh năm 1998) hỏi Th (sinh năm 2000): “Có ma tuý bán không, bán cho 500.000 đồng”, Th (sinh năm 2000) trả lời: “”. Sau đó Th1 (sinh năm 1998) đưa cho Th (sinh năm 2000) 01 tờ tiền 500.000 đồng, Th (sinh năm 2000) cầm tiền bằng tay phải rồi đưa lại cho Th1(sinh năm 1998) một túi nilon màu trắng, bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén màu đỏ, Th1 (sinh năm 1998) cầm ma tuý bằng tay phải. Đúng lúc này có lực lượng Công an đến kiểm tra, bắt quả tang Th (sinh năm 2000) và Th1 (sinh năm 1998) về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng như đã nêu trên và đưa mọi người về trụ sở làm việc.

Tại Bản Cáo trạng số 133/CT-VKSTPBN ngày 12/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và thừa nhận Bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 từ 36 đến 42 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 06/5/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vậtchứng vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ. Trả lại cho bị cáo Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh, màn hình rạn vỡ, máy đã qua sử dụng (không kiểm tra được tình trạng máy) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Văn Th nhận tội, không có ý kiến bổ sung gì thêm và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cùng vật chứng thu giữ được, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ ngày 05/5/2022, Th (sinh năm 2000) mua của một người đàn ông không quen biết tại xã Phương Liễu, huyện Q, tỉnh B 2.000.000 đồng được 0,6069 gam ma túy tổng hợp, trong đó có 0,4744 gam chất ma túy Methamphetamine và 0,1325 gam ma túy giả (Th nhận thức được toàn bộ số ma túy trên là ma túy thật, không biết trong số ma túy mua được có lẫn ma túy giả và dự định sẽ bán hết số ma túy trên). Đến 21 giờ 45 phút cùng ngày, tại khu Y Na, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố B đã bắt quả tang Nguyễn Văn Th (sinh năm 2000) có hành vi bán trái phép 0,0856 gam ma túy tổng hợp, trong đó có 0,0355 gam chất ma túy Methamphetamine và 0,0491 gam ma túy giả cho Nguyễn Văn Th1 (sinh năm 1998) với số tiền 500.000 đồng và cất giấu trên người 0,5232 gam ma túy tổng hợp, trong đó có 0,4389 gam chất ma túy Methamphetamine và 0,0834 gam ma túy giả với mục đích để bán kiếm lợi nhuận.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Nguyễn Văn Th, sinh năm 2000 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì hám lợi bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố B. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 30/11/2020 bị Công an huyện Q, tỉnh B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền với mức phạt 1.500.000 đồng, ngày 20/11/2021 chấp hành xong việc nộp phạt. Ngày 22/12/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh B ra Quyết định áp dụng biện báp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 12 tháng, đến ngày 31/12/2021 chấp hành xong trở về địa phương. Các quyết định này chưa được xóa án tích, vẫn bị coi là có tiền sự, lần này phạm tội không bị coi là tái phạm, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để cảnh tỉnh bản thân mà lại tiếp tục phạm tội điều này chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục cải tạo do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội. Tuy nhiên xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật nhưng xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, sống phụ thuộc vào gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Đối với số tiền 500.000đ thu của Th, sinh năm 2000 đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh, màn hình rạn vỡ, máy đã qua sử dụng của Th, sinh năm 2000, đây không phải là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Th, sinh năm 2000 sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với Nguyễn Văn Th1 (sinh năm 1998), là người đã mua ma túy của Nguyễn Văn Th (sinh năm 2000) để sử dụng, do khối lượng ma túy chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Th1 chưa có tiền án, tiền sự, hiện tại không có mặt tại địa phương, chưa xác định được Th1 ở đâu, làm gì. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

Đối với anh Vũ Văn M, sinh năm 1996, HKTT: thôn Đức Tài, xã Chi Lăng, huyện Q, tỉnh B là lái xe taxi chở Th (sinh năm 2000) đi bán ma túy, quá trình điều tra xác định giữa Th và M không có mối quan hệ, mâu thuẫn gì. Anh Mừng không biết việc Th (sinh năm 2000) thuê xe taxi để đi bán a túy và Th (sinh năm 2000) không nói cho M biết mục đích thuê xe là để đi bán ma túy, do vậy không có căn cứ để xử lý đối với anh M là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn M1, sinh năm 2004, HKTT: thôn Nghĩa Tiến, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang là bạn đi cùng trên xe taxi với Th, quá trình điều tra xác định M1 không biết việc Th đi mua ma túy, cất giấu và bán ma túy. Do vậy không có căn cứ để xử lý đối với M1.

Liên quan đến vụ án còn có người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Văn Th (sinh năm 2000) nhưng Th không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này và không nhận dạng được. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử phạt:

Xử phạt: Nguyễn Văn Th 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/05/2022. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ. Trả lại cho bị cáo Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh, màn hình rạn vỡ, máy đã qua sử dụng (không kiểm tra được tình trạng máy) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Biên bản giao nhận vật chứng số 151/GN - CCTHADS ngày 05/8/2022 giữa Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 185/2022/HS-ST

Số hiệu:185/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về