Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 184/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 184/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 185/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Lê Trâm A, sinh ngày 30 tháng 5 năm 1992 tại thành phố Hồ Chí Minh. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: khu phố 5, phường N, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ (đoàn thể, đảng phái): Không. Con ông Lê B, sinh năm 1947 (đã chết) và bà Trần N, sinh năm 1954 (đã chết). Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 4. Có chồng là Đỗ H, sinh năm 1985 (Đã ly hôn). Bị cáo có 02 con, sinh năm 2012 và năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt giữ ngày 26/12/2019, được hủy bỏ tạm giữ ngày 03/01/2020, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hữu H, sinh năm 1988 tại Đồng Nai. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: khu phố S, phường N, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Phật. Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Không. Chức vụ (đoàn thể, đảng phái): Không. Con ông Nguyễn D, sinh năm 1958 và bà Nguyễn L, sinh năm 1968. Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Bị cáo sống chung như vợ chồng (không đăng ký kết hôn) với chị Nguyễn N, sinh năm 1990 và có 01 con chung sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 06/9/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 02 năm tù về tội “Nhận hối lộ”, chấp hành xong bản án ngày 30/8/2013. Bị bắt, tạm giam từ ngày từ ngày 26/12/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trâm A và Nguyễn Hữu H đều là người sử dụng trái phép chất ma túy và sống chung với nhau tại nhà số 348, tổ 2, khu phố 2, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa. Để có ma túy sử dụng, Trâm A rủ Hoàng mua ma túy về lấy một phần sử dụng, phần còn lại bán thu hồi vốn, Hoàng đồng ý.

Khoảng 03 giờ ngày 26/12/2019, Trâm A một mình đi xe Grab đến khu vực Công viên Tam Hiệp, thuộc phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa mua của một đối tượng tên Hiếu (chưa rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.300.000 đồng. Sau đó, Trâm A mang về nhà tại địa chỉ nêu trên lấy 01 phần ma túy cùng Hoàng sử dụng, phần còn lại Trâm A chia thành 03 gói cất giấu mục đích để sử dụng và bán lại cho người nghiện. Cách thức mua bán: Các đối tượng cần mua ma túy thì gọi điện thoại cho Trâm A theo số 0963X47, Trâm A hẹn đến trước nhà số 348, tổ 2, khu phố 2, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa giao ma túy cho người nghiện và nhận tiền.

Vào khoảng 11 giờ 02 phút ngày 26/12/2019, với cách thức và địa điểm nêu trên, Trâm A đã giao cho Hoàng 01 gói ma túy tổng hợp để bán cho Đặng T, sinh năm 1988, ngụ tại: Số 146, khu phố 4, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa với giá 200.000 đồng. Trong lúc H và T đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì bị Công an phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang.

Vào khoảng 11 giờ 35 phút ngày 26/12/2019, lực lượng Công an phường Thống Nhất tiếp tục khám xét nơi ở của Trâm A và Hoàng tại số 348, tổ 2, khu phố 2, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa phát hiện và thu giữ 02 gói ma túy tổng hợp Trâm A đang cất giấu trong chiếc hộp nhựa để trên nền nhà.

Vật chứng trong vụ án, gồm:

- 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) được niêm phong có chữ ký của Hoàng và dấu mộc tròn đỏ của công an phường Thống Nhất (ký hiệu M1) - 02 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) được niêm phong có chữ ký của Lê Trâm A và dấu mộc của công an phường Thống Nhất (ký hiệu M2).

- Số tiền 200.000 đồng là tiền mua bán ma túy.

- 01 điện thoại di động hiệu ZONO màu đen, Imel: 354201404246817, sử dụng số thuê bao: 056X460, thu giữ của Đặng Quốc Tuấn. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di dộng hiệu Samsung, số Imel: 354621079485863/01, sử dụng số thuê bao: 0963X47 của Lê Trâm A.

- Số tiền 300.000 đồng của Lê Trâm A không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại kết luận giám định số 1723/KLGĐ-PC09 ngày 02/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận số ma túy thu giữ như sau:

- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0156gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 3,0540gam, loại: Methamphetamine Tại cáo trạng số 198/CT-VKS-BH ngày 03 tháng 4 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Lê Trâm A, Nguyễn Hữu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nêu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lê Trâm A, Nguyễn Hữu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng; áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Anh; để nghị xử phạt mỗi bị cáo với mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imel: 354621079485863/01, sử dụng số thuê bao: 0963X47 của Lê Trâm A và số tiền 200.000 đồng sử dụng vào việc phạm tội; tiếp tục tạm giữ của Lê Trâm A số tiền 300.000 đồng để đảm bảo thi hành án.Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo:

Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/12/2019 tại trước nhà số 348, tổ 2, khu phố 2, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, Lê Trâm A và Nguyễn Hữu H có hành vi 01 lần bán 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,0156 gam cho Đặng Quốc Tuấn với giá 200.000 đồng thì bị Công an phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang. Công an phường Thống Nhất tiếp tục thu giữ 02 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 3,0540 gam do Trâm A và Hoàng cất giấu với mục đích bán cho người nghiện.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác, đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo:

Trong vụ án này, bị cáo Lê Trâm A là người trực tiếp đi mua ma túy về phân ra để bán lại cho người nghiện; bị cáo Nguyễn Hữu H là người trực tiếp bán ma túy cho người nghiện.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Lê Trâm A có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội khi đang có thai, có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Hoàng có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử về tội “Nhận hối lộ”, bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội;

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[5] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của từng bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

-Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imel: 354621079485863/01, sử dụng số thuê bao: 0963X47 của Lê Trâm A và số tiền 200.000 đồng sử dụng vào việc phạm tội.

-Tiếp tục tạm giữ của Lê Trâm A số tiền 300.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và Biên lai thu tiền số 09917 cùng ngày 21/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc các bị cáo phải nộp.

[8] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:

- Đối với đối tượng tên Hiếu (không rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho Lê Trâm A, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

- Đối với Đặng Quốc Tuấn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Biên Hòa đã ra Quyết định số 806/QĐXPVP-HC ngày 03/01/2020 xử phạt số tiền là 1.750.000 đồng là phù hợp quy định của pháp luật.

[9] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Lê Trâm A, Nguyễn Hữu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

-Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Trâm A 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành hình phạt, nhưng được trừ đi 09 ngày đã bị tạm giữ trước đó (từ ngày 26/12/2019 đến ngày 03/01/2020).

-Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 26/12/2019.

-Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imel: 354621079485863/01, sử dụng số thuê bao: 0963X47 của Lê Trâm A và số tiền 200.000 đồng sử dụng vào việc phạm tội.

+ Tiếp tục tạm giữ của Lê Trâm A số tiền 300.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và Biên lai thu tiền số 09917 cùng ngày 21/4/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa).

-Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Lê Trâm A, Nguyễn Hữu H mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 đồng.

-Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 184/2020/HS-ST

Số hiệu:184/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về