Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 181/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 181/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 159/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Hữu T; sinh năm 1977, tại Thành phố H; nơi cư trú: 40D/6 Đường H, Phường ML, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Năm và bà Từ Thị T1; có vợ Hoàng Thị Lệ T2 và 01 con sinh năm 2015; tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 06/03/2018, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh kết án 03 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 26/2018/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2020. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 22/6/2018 và nộp phạt vào các ngày 25/6/2019 và ngày 11/6/2020.

Nhân thân:

- Ngày 17/9/1998, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh kết án 15 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” (theo Bản án số 174/HSST).

- Ngày 02/11/1998, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh kết án 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (theo Bản án số 248/HSST), tổng hợp với hình phạt của Bản án số 174/HSST ngày 17/9/1998, buộc chấp hành hình phạt chung là 24 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/4/2000, đã đóng án phí hình sự sơ thẩm vào các ngày 30/3/2005 và ngày 05/02/2018.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/4/2021 đến nay. (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đinh Thị Thu A; Hộ khẩu thường trú: 142 Lô D Chung cư Q, Phường c, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 50 phút, ngày 16/4/2021, tại trước số 121 MC, Phường ML, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 8 nghi vấn Trần Hữu T đang điều khiển xe gắn máy biển số PPP có liên quan đến ma túy, nên tiến hành kiểm tra thì phát hiện thu giữ: 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng, là ma túy được quấn băng keo màu đen dán vào lông đuôi con gà để trong giỏ đệm của xe gắn máy. T khai ma túy dùng để bán nên Công an tiến hành thu giữ vật chứng, đưa T về trụ sở Công an Phường 15, Quận 8 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ của T: 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu đỏ gắn sim số XXX và xe gắn máy biển số PPP. Sau đó, toàn bộ vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra làm rõ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 tiếp tục khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại nhà số 40D/6 Đường H, Phường ML, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 16 giờ cùng ngày. Thu giữ trong ngăn tủ tivi tại phòng khách: 01 bịch nylon màu đen bên trong chứa tinh thể không màu là ma túy. T khai đây là ma túy đá T cất giấu để bán.

Tại bản Kết luận giám định số 2595/KLGĐ-H ngày 23/04/2021, Phòng kỹ thuật bình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 1: Bột màu trắng trong 02 gói nylon được quấn băng keo hai mặt màu đen được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Hữu T và hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 (Ký hiệu mẫu ml) đều là ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,8385g (hai phẩy tám ba tám năm gam), loại Heroine.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon (để trong 01 bịch nylon màu đen) được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trần Hữu T và hình dấu Công an Phường ML, Quận 8 (Ký hiệu mẫu m2) là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,6315g (không phẩy sáu ba một năm gam), loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, Trần Hữu T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 15/04/2021, Trần Hữu T gọi điện cho Lư Tài L (còn gọi là Hùng Chảy) hỏi mua ma túy loại Heroine với giá 2.000.000 đồng. L đồng ý và đi đến nhà của T ở số 40D/6 Đường H, Phường ML, Quận 8 bán ma túy như đã thỏa thuận và cho T thêm 01 gói ma túy tổng hợp. T chia gói Heroine thành 02 gói để bán giá 1.000.000 đồng/gói, còn gói ma túy tổng hợp T cất giữ trong ngăn tủ tivi ở phòng khách để bán giá 500.000 đồng. Khoảng 10 giờ ngày 16/4/2021, có một thanh niên không rõ lai lịch gọi điện cho T hỏi mua Heroine và hẹn địa điểm mua bán tại khu vực cầu số 3 thuộc Phường 15, Quận 8 thì T đồng ý. Sau đó, T dùng băng keo màu đen quấn 02 gói nylon chứa Heroine và dán vào lông đuôi con gà, rồi bỏ vào giỏ đệm xe gắn máy biển số 59M1-42264. Trong lúc, T điều khiển xe đi bán ma túy thì bị Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Qua khám xét, Công an thu giữ gói ma túy còn lại mà T chưa kịp bán. Lời khai của Trần Hữu T phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 176/CT-VKS ngày 08/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Hữu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Hữu T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù; phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo, 01 giỏ đệm; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại hiệu tạm giữ của bị cáo do dung vào việc phạm tội; Tiếp tục tạm giữ và đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của 01 xe gắn máy biển số PPP. Hết thời hạn trên không tìm được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ bình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 16/4/2021, tại trước số 121 MC, Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Trần Hữu T có hành vi cất giữ trái phép 2,8385 gam ma túy loại Heroine để bán thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, vào lúc 16 giờ 00 phút, cùng ngày, khi tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại nhà so 40D/6 Đường H, Phường ML, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Quận 8 còn phát hiện bị cáo Trần Hữu T có hành vi cất giữ 0,6315 gam ma túy loại Methamphetamine, cũng với mục đích để bán.

[3] Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Mua bán bái phép chất ma túy” như sau:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

....

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... ”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực bách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và an toàn xã hội. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Trần Hữu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán bái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo bở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Xét thấy, bị cáo Trần Hữu T đã bị kết án về tội “Mua bán bái phép chất ma túy” vào năm 2018, chưa được xóa án tích. Do đó, lần phạm tội này là thuộc trường hợp “tái phạm ”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Mua bán bái phép chất ma túy” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, quá bình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Xét thấy, năm 1998, bị cáo T từng bị kết án phạt tù về các hành vi “Cướp giật tài sản của công dân”, “cố ý gây thương tích”. Cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, do đó khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[9] Về hình phạt bổ sung, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nhằm thu lợi bất chính nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về vật chứng vụ án, quá bình điều ba thu giữ số ma túy trong gói niêm phong số 2595, xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại hiệu VIVO màu đỏ, gắn sim số XXX là phương tiện liên lạc của T dùng để mua bán ma túy nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 giỏ đệm tạm giữ của bị cáo dùng để cất giấu ma túy, xét không có giá trị sử dụng nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

- Xe gắn máy biển số PPP tạm giữ của bị cáo do chị Đinh Thị Thu A đứng tên đăng ký. Qua xác minh, không xác định được nơi cư trú của chị A. Bị cáo T khai xe trên T mượn xe của người phụ nữ tên Tuyết (không rõ lai lịch). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có có kết quả. Do chưa xác định chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của xe nên cần tiếp tục đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp xe trên trong thời hạn 01 năm, hết thời hạn trên không có người nhận hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[11] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai nhận, trước đó vào ngày 13/4/2021, bị cáo mua ma túy để bán lại, thu lợi 500.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết. Tuy nhiên, ngoài lời khai của bị cáo thì không còn chứng cứ nào khác để truy cứu hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã thực hiện trước khi bị bắt quả tang, cũng như không có căn cứ để xác định số tiền thu lợi bất chính như bị cáo khai.

[12] Đối với Lư Tài L, quá trình điều tra không thừa nhận là người bán ma túy cho Trần Hữu T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[13] Đối với những người quản lý hợp pháp căn nhà so 40D/6 Đường H, Phường ML, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, qua điều tra xác định những người này không biết bị cáo T sử dụng nơi ở để tàng trữ trái phép ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

[14] Về án phí hình sự: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Hữu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Hữu T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2021.

Phạt bị cáo Trần Hữu T số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng, nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 221, 228 của Bộ luật Dân sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 gói niêm phong số 2595 (gói 1) bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Hữu T, hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 và chữ ký giám định viên Phan Hoàng Trạc;

- 01 gói niêm phong số 2595 (gói2) bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Hữu T, hình dấu Công an Phường ML, Quận 8 và chữ ký giám định viên Phan Hoàng Trạc;

- 01 giỏ đệm

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu đỏ, gắn sim số XXX.

Tiếp tục tạm giữ và đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng thời hạn 01 năm tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của 01 xe gắn máy biển số ppp, số máy 44S1- 068909, số khung: 44S10CY068901. Hết thời hạn trên không tìm được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

(Tất cả theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/10/2021).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Hữu T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 181/2021/HS-ST

Số hiệu:181/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về