Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 174/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 174/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 181/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 08 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 08 năm 2022 đối với:

* Bị cáo: Nguyễn M.H. Sinh năm: 1997. Giới tính: Nữ. ĐKHKTT: Số 103 C, phường C, quận K, Hà Nội. Nơi cư trú: Không nơi ở cố định. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 07/12. Họ tên cha: Nguyễn V.B, sinh năm: 1973. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L.A, sinh năm: 1976. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Có 04 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2022.

- Tiền án tiền sự: 01 tiền án Ngày 25/02/2022, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 14 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (AS: 41/HSST). Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo chưa đi chấp hành án – Án tích chưa được xóa.

Bắt quả tang: 16/5/2022 Tạm giữ: 17/05/2022 Tạm giam: 26/05/2022 Hiện bị cáo đang bị giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an TP. Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 55 phút ngày 16/05/2022, tổ Công an phường H làm nhiệm vụ tại phố B, phường C, quận K, Hà Nội phát hiện ông Nguyễn P.H1 (sinh năm: 1955, trú tại: Số 07 ngõ 153 T, phường Q, quận H, Hà Nội) điều khiển xe máy BKS: 29R3- xxxx trước số nhà 411 B, chở Nguyễn M.H đang bế cháu Nguyễn M.A (là con gái của H, sinh ngày: 01/01/2022) ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra.

Qua kiểm tra, Nguyễn M.H tự giao nộp 01 túi ni lông màu trắng trong kích thước 4 x 6,5 cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng và khai nhận là ma túy “đá” mang đi bán cho khách để kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật đồng thời đưa Hvà ông P.H1 cùng tang vật thu giữ về trụ sở để làm rõ. Ngoài ra, còn thu giữ của Nguyễn M.H: 01 điện thoại di động Redmi màu trắng kèm sim (02 sim) đã qua sử dụng; 200.000 đồng; Thu giữ của Nguyễn P.H1: 01 xe máy chưa xác định nhãn hiệu mang BKS: 29R3 – xxxx.

Tiến hành kiểm tra điện thoại của Nguyễn M.H có nội dung tin nhắn với số thuê bao 033581xxxx về việc hẹn giao dịch ma túy tại 411 B phường C, quận K, Hà Nội.

Tại kết luận giám định số 3296 ngày 25/05/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông khối lượng 1,442 gam là ma túy loại Methamphetamine (BL 32).

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn M.H khai: Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 16/05/2022, Nguyễn M.H nhận được cuộc gọi từ số máy 033581xxxx của H2 hỏi mua ma túy đá. H nói H2 phải đưa tiền trước rồi H sẽ đi lấy ma túy cho H2. Sau đó, H đi xe ôm đến địa chỉ 411 B gặp H2 và nhận của H2 1.800.000 đồng rồi tiếp tục đi xe ôm đến ngã tư T– B, hỏi mua ma túy đã của 01 người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch với giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H đi xe ôm đến địa chỉ 411 B để giao bán ma túy cho H thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Người lái xe ôm là ông Nguyễn P.H1 không biết và không liên quan đến việc M.H mang ma túy đi bán.

Người liên quan là ông Nguyễn P.H1 khai: Ông H1 làm xe ôm ở khu vực ngã tư T– B, quận H, Hà Nội. Tối ngày 16/05/2022, Ông H1 được Nguyễn M.H thuê chở đến địa chỉ 411 B, phường C, quận K, Hà Nội. Khi đến trước cửa số 411 B thì bị lực lượng Công an kiểm tra như đã nêu trên. Ông H11 không biết và không liên quan đến việc M.H bán trái phép chất ma túy. Đối với xe máy nhãn nhiệu PRETY BKS: màu đen BKS: 29R3 – xxxx số khung: 005728, Cơ quan điều tra xác minh chủ đăng ký là bà Đinh T.T (sinh năm: 1950, trú tại: 147 Đ, phường Đ, quận B, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, bà Thành khai mua chiếc xe máy trên từ năm 2005 và đã bán lại cho ông Nguyễn P.H1 vào năm 2006. Ông H1 khai phù hợp với lời khai của bà T về việc đã mua lại chiếc xe máy trên với mục đích sử dụng làm phương tiện đi lại nhưng chưa làm thủ tục sang tên chủ đăng ký xe máy. Xét thấy, Ông H1 không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn M.H nên Cơ quan điều tra không xử lý và đã trao trả chiếc xe máy trên cho Ông H1. Sau khi nhận lại tài sản, Ông H1 không có ý kiến khác.

Về đối tượng nam giới bán ma túy cho H, do H khai không biết tên tuổi địa chỉ, việc mua bán trực tiếp nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ.

Về đối tượng Nguyễn M.H khai tên H mua ma túy, sử dụng số thuê bao 033581xxxx, Cơ quan điều tra xác định chủ đăng ký là chị Nguyễn T.H3 (Sinh năm:

1972, trú tại: Số 13 T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa). Tại Cơ quan điều tra, chị H3 trình bày không đăng ký và sử dụng đến số thuê bao 033581xxxx nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận như khai tại Cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Nguyễn M.H tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 của Bộ Luật Hình sự là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ quyền công tố sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đã ban hành, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn M.H tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự; điểm h khoản 1 điều 52, khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56 Bộ Luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn M.H với mức án từ 36 tháng đến 40 tháng tù, tổng hợp hình phạt 14 tháng tù của bản án số 41/2022/HSST ngày 25/02/2022 do TAND quận Hai Bà Trưng xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án từ 50 tháng đến 54 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy số ma túy, 02 sim điện thoại đã thu giữ. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Redmi màu trắng đã qua sử dụng dùng để liên lạc mua bán ma túy và 200.000 đồng là tài sản bị cáo có được do hành vi phạm tội mà có. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, xin hứa không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 55 phút ngày 16/05/2022, Nguyễn M.H đã có hành vi cất giấu 1,422 gam là ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích bán trái phép thì bị bắt quả tang cùng tang vật tại khu vực trước cửa 411 B, phường C, quận K, Hà Nội.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vừa bị xét xử vào tháng 02 năm 2022 và biết rõ hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì hám lợi nên vẫn cố ý thực hiện, cũng cho thấy ý thức coi thường pháp luật.

[3] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Nguyễn M.H phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm.

[5] Về quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hơn nữa, bị cáo được giáo dục cải tạo, giúp bị cáo nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt phụ bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo; 02 (hai) sim điện thoại đã qua sử dụng, số sim: 0563292xxx; 039xxx4404.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Redmi màu trắng đã qua sử dụng mà bị cáo dùng để tin nhắn trao đổi mua bán ma túy và 200.000 (hai trăm nghìn) đồng là số tiền do hành vi phạm tội mà có.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Án phí hình sự: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: NGUYỄN M.H phạm Tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 251; Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56 của Bộ Luật Hình sự năm 2015;

- Điều 106,135, 136, 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

2.1 Xử phạt: NGUYỄN M.H 40 (BỐN MƯƠI) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 14 tháng tù của bản án số 41/2022/HSST ngày 25/02/2022 do TAND quận Hai Bà Trưng xét xử bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 54 (NĂM MƯƠI BỐN) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/5/2022.

3. Về Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của đương sự Nguyễn M.H, giám định viên Trương Trọng Việt bên trong có: 01 túi ni lông màu trắng KT 7x12cm gồm 1,422 gam ma túy loại Methamphetamine (PC09 trích mẫu 1,038 gam, còn lại 1,284 gam);

+ 02 (hai) sim điện thoại đã qua sử dụng, số sim: 0563292xxx; 039xxx4404.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Redmi màu trắng đã qua sử dụng và 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo.

Số vật chứng trên hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 07/9/2022.

Số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) hiện giữ tại tài khoản Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Giấy nộp tiền mặt của Công an quận Hoàn Kiếm ngày 06/9/2022.

4. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 174/2022/HS-ST

Số hiệu:174/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về