Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 172/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 172/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 139/2021/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2021/HSST-QĐ ngày 21/10/2021; Thông báo về thay đổi thời gian, địa điểm mở phiên tòa số: 18/2121/TB-TA ngày 16/11/2021 đối với bị cáo:

Trịnh Hồng P, sinh ngày 25/7/1971 tại tỉnh Thái Bình.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn B, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Chỗ ở: số nhà x, đường T, thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Trịnh Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, ông P được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang; Có vợ Đoàn Thị Thái H, có 04 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2012;

Tiền án: có 01 tiền án, Bản án số 63/2013/HSST ngày 24/4/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp với Bản án số 36/2012/HSST ngày 17/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo Trịnh Hồng P 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”. Bị cáo Trịnh Hồng P phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 07 năm 08 tháng 21 ngày tù (được trừ 09 ngày tạm giữ 03/11/2011 đến ngày 12/11/2011), thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/12/2012, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2019.

Tiền sự: Không Nhân thân:

Năm 1990 đến năm 1993 tham gia nghĩa vụ quân sự.

Bản án số 36/2012/HSST ngày 17/7/2012 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xử phạt Trịnh Hồng P 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 17 tháng 24 ngày, án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng, phạt bổ 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Ngày 05/11/2013 đã nộp 200.000 đồng và 300.000 đồng tiền phạt bổ sung, số tiền 4.700.000 đồng tiền phạt được đình chỉ thi hành theo Quyết định số 14 ngày 25/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.

Bị tạm giữ từ ngày 24/6/2021 đến ngày 27/6/2021 chuyển tạm giam. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thế B, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Ông Trần Đình T, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn N, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 24/6/2021, Trịnh Hồng P đến khu vực Công viên Lê Quý Đôn, thuộc tổ 09, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, mục đích mua ma túy về để bán kiếm lời. Tại đây, P gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ 2.700.000 đồng được gói ma túy mang về chia ra được 32 gói, bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng. Sau đó P mang số ma túy trên về nhà tại số nhà x, đường T, thôn T, xã V, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lấy 04 gói ma túy cất dưới gối đầu giường ngủ, số còn lại P để trên gác xép nhà mình để có ai hỏi mua thì bán. Khoảng 17 giờ 35 phút cùng ngày, Nguyễn Thế B đến gặp P hỏi mua ma túy, P đồng ý bán cho Bình 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, Bình đưa cho P 200.000 đồng, P nhận tiền và cho vào túi quần bên trái và đưa lại cho B 01 gói ma túy, Bình cho gói ma túy vào túi quần bên phải. Lúc này, tổ công tác Công an thành phố Bình phát hiện, yêu cầu kiểm tra đối với P và B. Trước sự chứng kiến của ông Trần Đình T và anh Phạm Văn T tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Thể B, B đã tự giác lấy từ túi quần bên phải 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, mở ra kiểm tra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục B khai đó là ma túy vừa mua của P với giá 200.000 đồng để sử dụng, tổ công tác đã tiến hành niêm P trong P bị ghi “Vật chứng quản lý của Nguyễn Thế B”. Tiến hành kiểm tra đối với P, P đã lấy từ túi quần bên trái giao nộp cho tổ công tác 01 tờ tiền mệnh giá lấy 200.000 đồng, P khai đó là tiền mà P vừa bán ma túy cho B mà có, tổ công tác đã tiến hành niêm P tờ tiền trên, thu tại túi quần bên phải của P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và số tiền 5.495.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm P vật chứng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trịnh Hồng P tại số nhà x, đường T, thôn T, xã V, thành phố T, P đã tự giác lấy tại gác xép trong nhà giao nộp cho tổ công tác 27 gói bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, mở ra kiểm tra bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, tổ công tác đã niêm P trong 01 P bì ký hiệu M1. Tiếp đó tổ công tác đã thu tại dưới đệm trong phòng ngủ của P 04 gói bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, mở ra kiểm tra bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, tổ công tác đã niêm P trong 01 P bì ký hiệu M2. P khai đó là ma túy của P, cất giấu để bán kiếm lời, tổ công tác đã lập biên bản quản lý, niêm P vật chứng.

Bản kết luận giám định số 255/KLGĐMT - PC09 ngày 25/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong P bì ghi “vật chứng quản lý của Nguyễn Thế B” là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,0595 gam (Không phẩy không nghìn năm trăm chín mươi lăm gam). Chất bột màu trắng dạng cục trong P bị ghi M1 là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 2,9346 gam (Hai phẩy chín nghìn ba trăm bốn mươi sáu gam). Chất bột màu trắng dạng cục trong P bì ghi M2 là ma túy, loại Heroine (Hêrôin) có khối lượng 0,4615 gam (Không phẩy bốn nghìn sáu trăm mười lăm gam).

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như trên. Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thế B và những người chứng kiến ông Trần Đình T và anh Phạm Văn T đều thể hiện như lời khai của bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 143/CT – VKSTPTB ngày 30/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố Trịnh Hồng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù. Đề nghị phạt bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước. Vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy số ma túy trong P bì niêm P hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung ngân sách số tiền 200.000 đồng; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động OPPO màu đen và số tiền 495.000 đồng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng : Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người chứng kiến và còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, lập hồi 17 giờ 45 phút ngày 24/6/2021 tại chỗ ở của Trịnh Hồng P; 02 Biên bản niêm P đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình lập hồi 19 giờ 05 phút và 19 giờ 50 phút ngày 24/6/2021; Biên bản khám xét do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 19 giờ 25 phút ngày 24/6/2021 tại chỗ ở của Trịnh Hồng P; Bản kết luận giám định số 255/KLGĐMT - PC09, ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 17 giờ 35 phút ngày 24/6/2021, tại số nhà x, đường T, thôn T, xã V, thành phố T, Trịnh Hồng P có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Thế B 01 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,0595 gam ma túy lấy 200.000 đồng bị Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra Trịnh Hồng P còn tàng trữ trái phép tại chỗ ở của mình 3,3921 gam ma túy, loại Hêrôin mục đích để bán kiếm lời.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bị cáo đã biết rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lời vẫn thực hiện với lỗi cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa được xóa án tích mà lại phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, bị cáo Trịnh Hồng P thành khẩn khai báo, bản thân bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự, có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định như Kiểm sát viên đề nghị mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo bán ma túy với mục đích kiếm lời nên cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

[5.1] Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Trịnh Hồng P được niêm P trong 02 P bì hoàn trả mẫu vật. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng của P do phạm tội mà có. Đối với 01 điện thoại di động OPPO màu đen và số tiền 495.000 đồng bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5.2] Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Nguyễn Thế B được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định.

[5.3] Đối với số tiền 5.495.000 đồng, quá trình điều tra xác định có 5.000.000 đồng là tài sản của chị Trịnh Thị V, sinh năm 1994, trú tại số nhà y, tổ z, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình (chị V là con gái P). Ngày 06/9/2021, chị Trịnh Thị V có đơn xin lại tài sản. Ngày 10/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã trả lại cho chị Trịnh Thị V số tiền 5.000.000 đồng.

[6] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai là mua của một người nữ giới nhưng không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[7] Đối với Nguyễn Thế B là người đã mua ma túy của Trịnh Hồng P mục đích để sử dụng cho bản thân. Do lượng ma túy B mua chưa đủ để khởi tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bản thân B chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi liên quan đến ma túy hoặc đã bị kết án về tội phạm ma túy. Ngày 05/7/2021 Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.000.000 đồng đối với Nguyễn Thế B là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Úy ban Thường vụ Quốc hội.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Hồng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trịnh Hồng P 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24/6/2021.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.

[3]. Về xử lý vật chứng:

[3.1]. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Trịnh Hồng P được niêm phong trong 02 phong bì hoàn trả mẫu vật giám định ký hiệu M1, M2 bên ngoài ghi số 255/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình;

[3.2]. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói quản lý của Nguyễn Thế B được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định bên ngoài ghi số 255/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

[3.3]. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng đã thu của Trịnh Hồng P.

[3.4]. Trả lại cho bị cáo Trịnh Hồng P 01 điện thoại di động OPPO màu đen và số tiền 495.000 đồng (Bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

(Vật chứng có đặc điểm như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 06/10/2021).

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 02-12-2021, anh Nguyễn Thế B có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 172/2021/HS-ST

Số hiệu:172/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về