Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 28/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 12/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 đối với:

Bị cáo Trần Văn V, sinh năm 1988; nơi sinh: Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 1, xã B, huyện P, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn O (đã chết) và bà Nguyễn Thị K; vợ Vương Thu H; con: 01, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 07/11/2022 đến ngày 13/11/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vương Thu H, sinh năm 1999; nơi cư trú: Khu 1, xã B, huyện P, tỉnh Phú Thọ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/11/2022, tại đoạn đường bê tông thuộc khu 12, xã L, huyện P, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác Công an huyện P đã kiểm tra, phát hiện Trần Văn V đang tàng trữ trái phép ma túy, mục đích để sử dụng và thu giữ vật chứng gồm 01 gói giấy 02 mặt đều màu trắng, bên trong chứa chất bột, cục màu trắng. V khai nhận đó là ma túy loại Heroine.

Tại Bản kết luận giám định số 1528/KL-KTHS ngày 09/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: Chất bột, cục màu trắng chứa trong 01 gói giấy hai mặt đều màu trắng trong phong bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,229 gam, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra V khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/11/2022, V đang ở nhà thuộc khu 1, xã B, huyện P, tỉnh Phú Thọ thì Lê Văn C, sinh năm 1964; trú tại: khu 4, xã B, huyện P, tỉnh Phú Thọ đến chơi. Tại đây, C rủ V góp tiền đi mua ma túy Heroine về cùng nhau sử dụng, V đồng ý. Sau đó C điều khiển xe mô tô chở V đến khu vực Cống Tiên Du thuộc xã Tiên Du, huyện P, tỉnh Phú Thọ để mua ma túy. Đến nơi, C bảo V xuống xe đứng chờ ven đường để C đi mua ma túy. V đưa cho C 240.000 đồng để mua ma túy, C cầm tiền rồi điều khiển xe đi. Khoảng 10 phút sau C quay lại đưa cho V 01 gói giấy hai mặt đều màu trắng, bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng là ma túy Heroine, V cầm gói ma túy rồi cất vào túi quần. Sau đó, C chở V đến đoạn đường bê tông gần Trung tâm y tế huyện P thuộc khu 12, xã L, huyện P, tỉnh Phú Thọ thì C bảo V xuống xe để C đi có việc riêng. Khi V đang đứng chờ C một mình thì bị tổ công tác Công an huyện P đến yêu cầu kiểm tra phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên. Gói ma túy này V khai nhận mua về với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn C không thừa nhận đã rủ V góp tiền đi mua ma túy Heroine về sử dụng và khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/11/2022, C đi xe mô tô đến nhà V chơi, V nhờ đưa đến xã L, huyện P, tỉnh Phú Thọ có việc riêng vì không có xe mô tô nên C đồng ý. Khi đến khu vực đường bê tông gần cổng Trung tâm y tế huyện P thì V xuống xe, C điều khiển xe mô tô đi về nhà. C không biết việc V tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Ngoài lời khai của V không có tài liệu nào khác chứng minh.

Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như trên, Trần Văn V còn bán trái phép chất ma túy loại Heroine cho Đoàn Văn H, sinh năm 1974, trú tại: khu 6, thị trấn C, huyện P, tỉnh Phú Thọ, cụ thể như sau: Vào hồi khoảng 11 giờ ngày 07/11/2022, V đang ở nhà thì thấy có cuộc gọi nhỡ từ số điện thoại 0967.152.5xx của H trong điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh lắp sim số 0366.7xx.1xx (điện thoại là của chị Vương Thu H, sinh năm 1999; trú tại: khu 1, xã B, huyện P - vợ của V); V nhắn tin cho H thì H nhắn tin lại hỏi mua của V 300.000 đồng ma túy Heroine, V đồng ý. H hẹn khoảng 14 giờ cùng ngày sẽ đến khu vực gần nhà V để mua ma túy. Đến khoảng gần 14 giờ, H một mình điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn rồi nhắn tin cho V. Một lúc sau V đi bộ ra, H đưa cho V 300.000 đồng (gồm một tờ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng và một tờ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng). V cầm tiền rồi đưa cho H 01 gói ma túy Heroine có đặc điểm là gói giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã triệu tập Đoàn Văn H đến làm việc. Tại cơ quan điều tra, Đoàn Văn H thừa nhận ngày 07/11/2022 đã mua của Trần Văn V 01 gói ma túy Heroine như nội dung V đã khai nhận. Sau khi mua được ma túy, H đã sử dụng một mình tại nhà hết.

Về nguồn gốc số ma túy bán cho Đoàn Văn H, V khai nhận: khoảng 08 giờ ngày 07/11/2022, V một mình đi xe khách đến thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy Heroine. Tại đây, V mua được của một người nam giới không quen biết đứng ở ven đường một gói ma túy Heroine có đặc điểm là gói giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, V mang về nhà rồi lấy một phần ma túy ra sử dụng cho bản thân, phần ma túy còn lại V gói lại như cũ rồi bán cho H như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã tiến hành kiểm tra việc sử dụng chất ma túy đối với Trần Văn V, Lê Văn C và Đoàn Văn H. Kết quả, V và H dương tính với chất ma túy Morphine-Heroin-Opiates (MOP); âm tính với các chất ma túy Methaphetamine (MET); Maijuana (THC); Amphetamine (AMP), C âm tính với tất cả chất ma túy nêu trên.

Trần Văn V khai nhận số tiền 300.000 đồng V sử dụng để mua ma túy ở thành phố Thái Nguyên là do V lao động mà có. Số tiền 240.000 đồng V khai nhận góp với C đi mua ma túy là tiền V bán ma túy cho H mà có; V đã tiêu xài cá nhân hết 60.000 đồng sau khi bán ma túy cho H.

Cáo trạng số 14/CT-VKSPN ngày 07/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Trần Văn V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Bị cáo V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai nhận do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện P đấu tranh làm rõ nên bị cáo mới khai ra hành vi bán ma túy cho H chứ không phải bị cáo tự khai nhận như cáo trạng truy tố.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với cả 02 tội), Điều 38, Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt bị cáo V từ 20 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; tổng hợp hình phạt đối với cả 02 tội từ 50 đến 60 tháng tù, có khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/11/2022 đến ngày 13/11/2022, không áp dụng hình phạt bổ sung với cả 02 tội. Về vật chứng, biện pháp tư pháp và án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng:

Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đã được tống đạt cho những người tham gia tố tụng đúng thời hạn do pháp luật quy định nên các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/11/2022, tại đoạn đường bê tông thuộc khu 12, xã L, huyện P, tỉnh Phú Thọ, Trần Văn V có hành vi tàng trữ 0,229gam ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện P phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngoài ra, quá trình điều tra qua đấu tranh làm rõ, khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, V còn bán ma túy một lần 01 gói ma túy, loại Heroine cho Đoàn Văn H, sinh năm 1974; trú tại: khu 6, thị trấn C, huyện P, tỉnh Phú Thọ với giá 300.000đồng.

Như vậy, bị cáo V phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh tại địa phương. Bị cáo biết rõ các hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là trái pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện vì động cơ vụ lợi cá nhân. Do đó, cần xử phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo V ra khỏi xã hội mới đảm bảo cải tạo, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với cả 02 tội.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra thể hiện bị cáo không có tài sản gì có giá trị, không có thu nhập, nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả 02 tội là phù hợp.

Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp:

Đối với 0,163 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong trong bì giấy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ là mẫu vật hoàn lại sau giám định, là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; vật không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh bên trong lắp sim số 0366.7xx.1xx; số seri: 354644052364558 là điện thoại của chị H cho bị cáo mượn để liên lạc hàng ngày, không biết bị cáo sử dụng để mua bán trái phép chất ma túy nên cần trả lại cho chị H là phù hợp.

Đối với số tiền 300.000đ V thu được khi bán ma túy cho H là tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội nên cần buộc bị cáo nộp lại để sung vào ngân sách nhà nước là phù hợp.

Đối với chiếc điện thoại di động lắp sim số 0967.152.5xx của Đoàn Văn H sử dụng nhắn tin mua ma túy của V. H khai nhận đã bị rơi mất nên Cơ quan điều tra không xác minh thu giữ được, xét thấy là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đoàn Văn H đã vi phạm khoản 1, Điều 23, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ nên Công an huyện P đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định, xét thấy là phù hợp.

Đối với nguồn gốc số ma túy và người bán ma túy cho V nhưng bị cáo không rõ tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ là phù hợp.

Đối với việc V khai nhận đưa cho Lê Văn C số tiền 240.000 đồng để C đi mua ma túy thì ngoài lời khai của V không có chứng cứ chứng minh nào khác nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ là phù hợp .

Xét đề nghị của Kiểm sát viên về các căn cứ pháp luật, đề xuất về hình phạt, xử lý vật chứng và án phí là phù hợp.

[3]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 (đối với cả 02 tội), điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, b, c khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, xử:

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy và Táng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo V 20 (Hai mươi) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt với cả 02 tội là 56 (Năm mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/11/2022 đến ngày 13/11/2022.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng 2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 0,163 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong bì giấy của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ.

- Trả lại cho chị Vương Thu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu xanh bên trong lắp sim số 0366.7xx.1xx; số seri: 354644052364558.

Các vật chứng trên đang lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Phú Thọ.

- Buộc bị cáo Trần Văn V phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 300.000đ để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Văn V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về