Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

 BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 05/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/6/2023 tại trụ sở TAND huyện Tây Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 11/5/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2023/QĐXXST-HS ngày 24/5/2023, đối vớí các bị cáo:

1. D Đ, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1987; nơi sinh: Phú Yên; nơi cư trú: Thôn Mỹ Phú, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: nông; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương P – sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị X H - sinh năm 1960; bị cáo có 02 em, bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/9/2022. Có mặt tại phiên tòa.

2. Trương Văn S - sinh ngày 27/7/2002 tại Phú Yên; nơi cư trú: Thôn Mỹ Phú, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn C – sinh năm 1979 và bà Lê Thị Kim H - sinh năm 1983; Bị cáo có 02 em; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án:

Tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 17/3/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa xử phạt 01 năm tù về tội Cưỡng đoạt tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2022. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Nguyễn Lê K, sinh năm 1994; Vắng mặt - Trần Mạnh H, sinh năm 2002; Vắng mặt - Nguyễn Văn H, sinh năm 1994; Vắng mặt Cùng trú tại: Thôn Thạnh Phú Đông, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

- Nguyễn Thành N, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn Phú Nhiêu, xã Hòa Mỹ Đông, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Phạm Quốc T, sinh năm 1995; nơi cư trú: Thôn Lạc Mỹ, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Nguyễn Thanh T, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn Tân Mỹ, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Nguyễn Anh L, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn Sơn Thọ, xã Sơn Thành Tây, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm 1960; nơi cư trú: Thôn Mỹ Phú, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Có mặt - Nguyễn Thị Hồng X, sinh năm 1992; nơi cư trú: KP. Nguyễn Trung Trực, phường 8, thành phố Tuy Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Trần H, sinh năm 1994; nơi cư trú: Thôn Phú Thịnh, xã Sơn Thành Đông, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Cao Bá L, sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn Tịnh Thọ, xã Sơn Thành Tây, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Trịnh Văn R, sinh năm 1985, nơi cư trú: Thôn Quãng Mỹ, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, Phú Yên. Vắng mặt - Lê Văn S, sinh năm 1983, nơi cư trú: Thôn Xí Thoại, xã Xuân Lãnh, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt - Hà Trịnh T, sinh năm 1991, nơi cư trú: Khu phố An Thạnh, phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 27/9/2022, Dương Đ đang ở nhà thì khoảng 14h30 có một người đàn ông tự xưng là K B gọi điện thọai kêu Đã mang ma túy đến nhà nghỉ NH ở thôn Lương Phước, xã Hòa Phú, huyện Tây Hòa, Phú Yên bán với giá 1.000.000đồng. Dương Đ đồng ý và lấy bì ni lông bên trong có ma túy đá bỏ vào gói thuốc lá hiệu 555, bên trong có 16 điếu thuốc rồi điều khiển xe mô tô biển số 79H1-505.xx đến điểm hẹn để bán ma túy nhưng trên đường đi Dương Đ bị Công an huyện Tây Hòa phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và phương tiện đưa về trụ sở công an xã Hòa Phú để làm rõ.

Km xét khẩn cấp nơi ở của Dương Đ tại thôn Mỹ Phú, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên thu giữ được 16 bì nilon, bên trong có chứa ma túy đá và một số đồ vật, dụng cụ có liên quan đến việc mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra Dương Đ khai nhận: Để có tiền tiêu xài và ma túy để sử dụng, trong khoản thời gian từ tháng 01/2022 đến tháng 09/2022, Dương Đ có 05 lần đón xe Kch vào quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) để mua ma túy với số tiền từ 1.500.000đ đến 2.000.000đồng sau đó mang về Phú Yên chia lẻ từng bì(tép) nhỏ rồi trực tiếp đi bán 14 lần, chỉ nơi cất giấu cho Trương Văn Sinh lấy bán cho nhiều người sử dụng 8 lần, cụ thể như sau:

Dương Đ bán ma túy cho Nguyễn Thanh P 02 lần với tổng giá tiền 600.000đồng, bán cho Nguyễn Thành N 01 lần với giá tiền 300.000đồng, cho Phạm Quốc T 04 lần với tổng giá tiền 1.200.000đồng, bán cho Nguyễn Anh L 01 lần với giá tiền 300.000đồng, bán cho Nguyễn Lê K, Nguyễn Văn H 01 lần với giá tiền 300.000đồng, bán cho Nguyễn Lê K, Trần Mạnh H 02 lần với tổng số tiền 1.200.000đồng.

Dương Đ chỉ chỗ giấu ma túy cho Trương Văn S lấy bán 08 lần cụ thể như sau: Bán cho Phạm Quốc T 03 lần với tổng giá tiền là 900.000 đồng, bán cho Nguyễn Lê K 04 lần với tổng số tiền là 2.000.000đồng, bán cho Nguyễn Anh L 01 lần với giá tiền là 300.000đồng Tại Kết luận giám định số 355/KL-KTHS ngày 30/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong bì ni long trong suố tthu được trong người Dương Đ là ma túy, có tổng khối lượng là 1,155g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, số thứ tự 323, Nghị định số 73, ngày 15/5/2018 của Chính phủ (Bút lục 98-99).

- Tinh thể màu trắng trong 16 bì ni long trong suốt thu được khi Km xét tại nơi ở của Dương Đ là ma túy, có tổng khối lượng là 2,513g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, số thứ tự 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ (Bút lục 98-99).

Vật chứng: Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tây Hòa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Hòa.

Cáo trạng số 17/CT-VKSTH ngày 19/5/2023 VKSND huyện Tây Hòa truy tố các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Dương Đ, Trương Văn S khai nhận hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội; giữ nguyên cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 đối với các bị cáo Dương Đ; điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 đối với bị cáo Trương Văn S; Xử phạt bị cáo Dưỡng Đã từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù; xử phạt bị cáo Trương Văn Sinh từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam Phạt bổ sung: không áp dụng.

Vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy - 17 túi ni long bên trong có chứa 2,417g Methamphetamine (sau giám định); 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, bên trong có 16 điếu thuốc là 555, 01 khẩu trang ý tế màu trắng, 01 mũ lưỡi trai màu đen,, nâu, hiệu Cucci, 01 bật lửa, một bình ga mi ni màu xanh trắng – vàng – đen - đỏ, 0 lọ thủy tinh nắp màu đỏ, 01 bình ga màu đen nhãn hiệu Bluesky, 01 chai nhựa (dạng bình sữa trẻ em), 01 cây kéo bằng kim loại, 09 túi nhựa, 01 đoạn ông nhựa màu trắng đục, Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tây Hòa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Hòa..

Tịch thu sung công quỹ các vật chứng sau: 01 điện thoiaj di động hiệu Sam Sung màu đen có số thuê bao 0328724733 và số thuê bao 03447687xx, 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xanh tím, biển số 79H1-505.xx số khung RLCS5C6KDY026535 số máy 5C6k026553 Trả lại cho bị cáo Dương Đ và bà Nguyễn Thị Xuân H 01 máy tỉnh bảng nhãn hiệu Sam Sung màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen trắng, 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu vàng – hồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, xin HĐXX xử các bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTHS. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Dương Đ, bị cáo Trương Văn S tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với các tài liệu là chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 01/2022 đến tháng 09/2022, Dương Đ có 05 lần đón xe Kch từ Phú Yên đến quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) mua ma túy với số tiền từ 1.500.000đ đến 2.000.000 đồng sau đó mang về Phú Yên chia lẻ từng bì(tép) nhỏ rồi trực tiếp đi bán 14 lần với tổng số tiền thu được là 8.400.000 đồng tiêu xài và có ma túy để sử dụng, chỉ nơi cất giấu cho Trương Văn Sinh lấy bán cho nhiều người sử dụng 8 lần thu được là 3.200.000đồng.

Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS nên Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Các bị cáo Dưỡng Đ và Trương Văn S là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bản thân các bị cáo nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là phạm tội. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm tới quyền quản lý, kiểm soát chất ma túy của Nhà nước; Mua bán ma túy trái phép là tệ nạn, là hiểm họa lớn cho xã hội, là nguyên nhân phát sinh tội phạm, trực tiếp gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Về vai trò của từng bị cáo:

- Bị cáo Dương Đ là người chủ mưu, là người trực tiếp liên hệ với người bán ma túy tại thành phố Hồ Chí Minh để mua má túy, trực tiếp nhận ma túy mang về Phú Yên cất giấu để buôn bán, vai trò chủ đạo trong việc phân lẻ, liên hệ với người mua ma túy, quyết định giá cả nên căn cứ vào vai trò của bị cáo khi quyết định hình phạt cần cao hơn bị cáo Trương Văn Sinh.

- Bị cáo Trương Văn S là người có vai trò thứ hai trong vụ án, sau bị cáo Dương Đ, hành vi của bị cáo không nguy hiểm bằng hành vi của bị cáo Dương Đ. Do đó khi quyết định hình phạt cần có mức án thấp hơn mức án của bị cáo Dương Đã.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Vê tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt. Riêng bị cáo D Đã có ông Ngoại là người có công cách mạng được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo.

[5] Phạt bổ sung: không áp dụng. [6] Vật chứng:

Các vật chứng là phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, Các vật chứng là phương tiện phạm tội có giá trị sử dụng tịch thu sung công quỹ, ác vật chứng không dùng vào phường tiện phạm tội thì trả lại theo quy định của pháp luật - 17 túi ni long bên trong có chứa 2,417g Methamphetamine (sau giám định); 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, bên trong có 16 điếu thuốc là 555, 01 khẩu trang ý tế màu trắng 01 mũ lưỡi trai màu đen, nâu, hiệu Cucci;

01 giấy chứng minh nhân dân mang tên D Đã, 01 điện thoiaj di động hiệu Sam Sung màu đen có số thuê bao 0328724733 và số thuê bao 03447687xx, 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xanh tím, biển số 79H1-505.xx số khung RLCS5C6KDY026535 số máy 5C6k026553, 01 bật lửa một bình ga mi ni màu xanh trắng – vàng – đen - đỏ, 01 lọ thủy tinh nắp màu đỏ, 01 bình ga màu đen nhãn hiệu Bluesky, 01 chai nhựa (dạng bình sữa trẻ em), 01 cây kéo bằng kim loại, 09 túi nhựa, 01 đoạn ông nhựa màu trắng đục 01 máy tỉnh bảng nhãn hiệu Sam Sung màu đen 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen trắng 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu vàng – hồng 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tây Hòa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Hòa..

[6] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo D Đ, Trương Văn S phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS đối với bị cáo D Đã Xử phạt bị cáo D Đ 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2022.

Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 251 BLHS đối với bị cáo D Văn Sinh Xử phạt bị cáo Trương Văn S 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2022, tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù của bản án hình sự số 06/HS-ST ngày 17/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tây Hòa bị cáo Trương Văn S phải chịu hình phạt là 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2022.

Vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Các vật chứng là phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, gồm:

- Một bì thư có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên bên trong có chứa 2,417g Methamphetamine (sau giám định) và 17 túi ni long;

- 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, bên trong có 16 điếu thuốc là 555, - 01 khẩu trang ý tế màu trắng - 01 mũ lưỡi trai màu đen, nâu, hiệu Cucci;

- 01 bật lửa - một bình ga mi ni màu xanh trắng – vàng – đen - đỏ, - 01 lọ thủy tinh nắp màu đỏ - 01 bình ga màu đen nhãn hiệu Bluesky, - 01 chai nhựa (dạng bình sữa trẻ em), - 01 cây kéo bằng kim loại - 09 túi nhựa - 01 đoạn ống nhựa màu trắng đục - 01 túi ni long màu trắng bên trong có 123 ống hút bằng nhựa, màu trắng đục.

Tịch thu sung công quỹ các vật chứng sau:

- 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung màu đen có số thuê bao 0328724733 và số thuê bao 03447687xx, - 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xanh tím, biển số 79H1-505.xx số khung RLCS5C6KDY026535 số máy 5C6k026553 Trả lại cho bị cáo D Đã các vật chứng sau:

- 01 máy tỉnh bảng nhãn hiệu Sam Sung màu đen - 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen - 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên D Đ Trả lại cho bà Nguyễn Thị Xuân H:

- 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu đen trắng;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đen.

Trả lại cho Nguyễn Thị Hồng X:

- 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu vàng – hồng Về án phí: Áp dụng Điều 135 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí Tòa án; Buộc các bị cáo D Đ và Trương Văn S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền Kng cáo: Các bị cáo được quyền Kng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về