Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 10/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 7 năm 2020; tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Q đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2020/TLST-HS, ngày 25/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2020/QĐXXST-HS, ngày 30/6/2020 đối với bị cáo:

PHAN THỊ HUYỀN T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 24/11/1986, tại: Huyện B, tỉnh Q; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn 1, xã H, huyện P, tỉnh Q; nơi cư trú: Tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không ổn định; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Công R (1960) và con bà Phan Thị S (1963); chồng Trần Vũ H (1988) và có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn V; nơi cư trú: Tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q; mặt tại phiên tòa.

- Ông Trần Vũ P; nơi cư trú: Tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q;

vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Nguyễn Thụy H; nơi cư trú: Tổ dân phố số 2, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Trần Văn T; nơi cư trú: Tổ 43, phường V, quận K, thành phố Đ; vắng mặt tại phiên tòa.

*Người chứng kiến:

- Bà Phạm Thị H; nơi cư trú: Tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q;

vắng mặt tại phiên tòa.

- Bà Võ Thị S; nơi cư trú: Tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18 giờ 00 phát, chiều ngày 20/3/2020, lực lượng công an huyện S, tỉnh Q đang làm nhiệm vụ tuần tra tại đường Phạm Văn Đồng huyện P, tỉnh Q thì phát hiện Phan Thị Huyền T và ông Nguyễn V có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện bên tay trái của Phan Thị Huyền T đang cầm 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng; kiểm tra khu vực dưới chân chỗ ông Nguyễn V đang đứng phát hiện 01 gói thuốc lá Prince bên trong có 04 điếu thuốc và 01 gói giấy bạc, trong gói giấy bạc có chứa cục, bột màu trắng là ma túy. Lực lượng Công an huyện S tiến hành lập biên bản quả tang và thu giữ tang vật.

Sau đó lực lượng Công an huyện S tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Thị Huyền T tại nhà số 110 đường Nguyễn Văn Linh, tổ dân phố số 5, thị trấn K, huyện P, tỉnh Q phát hiện dưới tấm nệm trong phòng ngủ của Phan Thị Huyền T có 01 gói nilon màu trắng được bọc 01 khẩu trang màu xanh trắng, bên trong gói nilon có 17 gói giấy bạc trong mỗi gói giấy bạc có chứa cục chất rắn màu trắng là ma túy. Ngoài ra trong quá trình khám xét còn phát hiện và thu giữ 01 bao nilon màu đen bên trong có 01 cân điện tử mini hiệu Pocket scale, 01 dao lam và 01 đĩa cân nhựa màu đen.

Tang vật thu giữ: 01 gói thuốc lá hiệu Prince bên trong có 04 điếu thuốc và 01 gói giấy bạc màu trắng, trong gói giấy bạc có chứa cục, bột màu trắng là chất ma túy; 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng; 01 xe máy biển kiểm soát 43F1-xxxxx; 01 gói nilon màu trắng được bọc 01 khẩu trang màu xanh trắng, trong gói nilon có 17 gói giấy bạc, trong mỗi gói giấy bạc có chứa cục chất rắn màu trắng là chất ma túy; 01 cân điện tử mini hiệu Pocket scale, 01 dao lam và 01 đĩa cân nhựa màu đen.

Tại bản kết luận giám định số 33/PC09, ngày 25/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: Các mẫu vật (mẫu ký hiệu A1 và A2) gửi giám định là ma túy, loại Heronine. Mẫu A1 có khối lượng là 0,05 gam; mẫu A2 có khối lượng là 0,972 gam. Hoàn lại đối tượng giám định 0,721 gam mẫu A2 và toàn bộ bao gói các mẫu vật sau giám định (tất cả các đối tượng hoàn trả trong phong bì niêm phong số 33/PC09). Mẫu A1 đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKSPS-HS, ngày 24/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Q truy tố bị cáo Phan Thị Huyền T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa những người tham gia tố tụng khai nhận:

Bị cáo Phan Thị Huyền T khai nhận: Chiều ngày 20/3/2020, bị cáo đang ở nhà thì có ông Nguyễn V đến hỏi bị cáo “có không?” tức là có ma túy không? bị cáo không nói gì; ông Nguyễn V chạy xe máy vào đường Phạm Văn Đồng, bị cáo lấy 01 gói ma túy chạy xe máy theo sau đến trước khu vực chợ mới khâm Đức đường Phạm Văn Đồng thì ông Nguyễn V đưa cho bị cáo 200.000 đồng và bị cáo đưa lại cho ông Nguyễn V 01 gói thuốc lá Prince màu xanh bên trong có 01 gói giấy bạc chứa cục chất rắn màu trắng là ma túy (Heroine). Sau khi bị cáo vừa bán 01 gói ma túy cho ông Nguyễn V thì lực lượng Công an huyện S ập đến để kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trên tay trái bị cáo đang cầm tờ 200.000 đồng; kiểm tra khu vực ông Nguyễn V đang đứng phát hiện 01 gói thuốc lá Prince màu xanh bên trong có 04 điếu thuốc lá và 01 gói giấy bạc chứa cục chất rắn màu trắng là chất ma túy do ông Nguyễn V mới mua của bị cáo.

Sau đó lực lượng công an huyện S tiến hành khám xét nhà bị cáo đã phát hiện và thu giữ dưới nệm trong phòng ngũ của bị cáo 01 khẩu trang màu xanh trắng, bên trong có gói nilon màu trắng, trong gói nilon này có 17 gói chất ma túy (Heroine) là của bị cáo cất giữ nhằm mục đích để bán kiếm tiền. Ngoài ra, Công an huyện S còn thu giữ 01 cân điện tử, 01 dao lam, 01 đĩa cân đều là của bị cáo để sử dụng vào việc mua bán ma túy.

Tất cả số ma túy bị Công an huyện S bắt quả tang và thu giữ tại nhà bị cáo vào ngày 20/3/2020 đều là của bị cáo. Nguồn gốc ma túy trên bị cáo mua của một người phụ nữ tên T (không rõ lai lịch) tại đường Nguyễn Hoàng, thành phố Đ với giá 3.000.000 đồng; mục đích bị cáo mua ma túy trên là để bán lại kiếm tiền; bị cáo mới bán 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng cho ông Nguyễn V vào ngày 20/3/2020 thì bị bắt quả tang. Còn chiếc xe máy biển kiểm soát 43F1-xxxxx là của anh Trần Vũ P, việc bị cáo lấy đi bán ma túy anh Trần Vũ P hoàn toàn không biết. Người thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị bắt quả tang vào ngày 20/3/2020 chính là bị cáo; bị cáo không nhận tội thay cho ai; không có ai tham gia.

Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo không bị đánh đập, không bị ép cung; hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn V khai nhận: Chiều ngày 20/3/2020, tôi chạy xe máy đến hỏi Phan Thị Huyền T “có không?” tức là có ma túy không? thì T không nói gì; sau đó tôi chạy xe máy về đường Phạm Văn Đồng thì thấy T chạy xe máy theo sau, đến trước khu vực chợ mới khâm Đức đường Phạm Văn Đồng tôi đưa cho T 200.000 đồng thì T đưa lại cho tôi 01 gói thuốc lá Prince bên trong có 01 gói ma túy. Sau đó, tôi và T bị Công an huyện S lập biên bản quả tang; đây là lần đầu tiên tôi mua ma túy của T, mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán lại.

Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Căn cứ hồ sơ, tài liệu, chứng cứ thu thập được; kết luận giám định chất ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q; căn cứ lời khai của bị cáo Phan Thị Huyền T tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Xét thấy bị cáo Phan Thị Huyền T đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,05 gam cho ông Nguyễn V với giá 200.000 đồng vào chiều ngày 20/3/2020 bị bắt quả tang và qua khám xét tại nhà bị cáo đã phát hiện và thu giữ 17 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,972 gam đều nhằm mục đích để bán kiếm tiền bất hợp pháp. Xét thấy hành vi của bị cáo Phan Thị Huyền T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, hộ nghèo; đang nuôi hai con nhỏ và khi phạm tội bị cáo đang có thai nên được xem là tình tiết giảm nhẹ; không có tình tiết tăng nặng.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm n,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phan Thị Huyền T từ: 2-3 năm tù.

Đối với ông Nguyễn V mục đích mua 01 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,05 gam của bị cáo Phan Thị Huyền T nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của ông Nguyễn V chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện S đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên không đề cập.

Đối với người đàn bà tên T (không rõ lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo Phan Thị Huyền T tại đường Nguyễn Hoàng, thành phố Đ không xác minh được lai lịch nên không đề cập đến việc xử lý.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 33/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,721 gam ma túy là heroine và toàn bộ bao gói các mẫu vật sau giám định; 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 01 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 cân điện tử mini màu đen hiệu Pocket scale được đựng trong 01 túi da màu đen, 01 đĩa cân nhựa màu đen, 01 dao lam đã qua sử sung; 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 02 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 khẩu trang y tế màu xanh trắng đã qua sử dụng, 01 bao nilon trong suốt, 17 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 03 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 bao thuốc lá hiệu Prince, trong bao thuốc có 04 điếu thuốc lá và 01 mảnh giấy bạc màu trắng.

Trả lại cho ông Trần Vũ P là người quản lý, sử dụng 01 xe máy nhãn hiệu SYM – moto STAR110 màu xanh, biển kiểm soát 43F1-xxxxx đã qua sử dụng.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 200.000 đồng tiền Việt Nam do bị cáo Phan Thị Huyền T bán ma túy mà có.

Bị cáo Phan Thị Huyền T không tranh luận gì, nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn V không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, của điều tra viên; của Viện kiểm sát, của kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phan Thị Huyền T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nên các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Phan Thị Huyền T nhận thức và biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi bị pháp luật cấm thế nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Cụ thể, chiều ngày 20/3/2020 bị cáo Phan Thị Huỳnh T đã thực hiện hành vi bán 01 gói ma túy có trọng lượng 0,05 gam là loại Heroine cho ông Nguyễn V với giá 200.000 đồng thì bị bắt quả tang và qua khám xét tại nhà bị cáo Công an đã thu giữ dưới nệm trong phòng ngũ của bị cáo 17 gói ma túy có trọng lượng 0,972 gam là loại Heroine cũng nhằm mục đích để bán kiếm tiền bất hợp pháp, do đó bị cáo Phan Thị Huyền T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; biên bản bắt quả tang; kết luận giám định chất ma túy; luận tội của kiểm sát viên; lời khai nhận tội của bị cáo và người tham gia tố tụng tại phiên tòa phù hợp với tài liệu, chứng cứ được chứng minh có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ kết luận: Chiều ngày 20/3/2020 bị cáo Phan Thị Huyền T đã thực hiện hành vi bán 01 gói ma túy có trọng lượng 0,05 gam là loại Heroine cho ông Nguyễn V với giá 200.000 đồng thì bị bắt quả tang và qua khám xét tại nhà bị cáo đã thu giữ 17 gói ma túy có trọng lượng 0,972 gam là loại Heroine cũng nhằm mục đích để bán kiếm tiền bất hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi mua và bán chất ma túy của bị cáo Phan Thị Huyền T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Q đã truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Xét thấy tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện diễn biến phức tạp, tính chất phạm tội ngày càng tinh vi. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, hộ nghèo; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đang có thai và đang nuôi hai đứa con nhỏ nên được xem là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; không có tình tiết tăng nặng.

Đối với ông Nguyễn V mục đích mua ma túy của bị cáo Phan Thị Huyền T là để sử dụng, không có mục đích bán. Hành vi của ông Nguyễn V đã bị Công an huyện S, tỉnh Q ra quyết định xử phạt hành chính nên không đề cập đến.

Đối với người phụ nữ tên T không rõ lai lịch đã bán ma túy cho bị cáo Phan Thị Huyền T không xác minh được nên không đề cập đến việc xử lý.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Phan Thị Huyền T không có việc làm và thu nhập ổn định; hoàn cảnh gia đình khó khăn, hộ nghèo nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a,b,c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 33/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,721 gam ma túy, loại Heroine và toàn bộ bao gói các mẫu vật sau giám định; 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 01 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 cân điện tử mini màu đen hiệu Pocket scale được đựng trong 01 túi da màu đen và 01 đĩa cân nhựa màu đen, 01 dao lam đã qua sử dụng;

01 phong bì đã được niên phong dán kín số 02 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 khẩu trang y tế màu xanh trắng đã qua sử dụng, 01 bao nilon trong suốt, 17 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 phong bì đã được niêm phong dán kín số 03 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, bên trong phong bì có 01 bao thuốc lá Prince, trong bao thuốc có 04 điếu thuốc lá Prince và một mảnh giấy bạc màu trắng.

Trả lại cho ông Trần Vũ P là người quản lý, sử dụng 01 xe máy biển kiểm soát 43F1-xxxxx (vì khi bị cáo Phan Thị Huyền T lấy xe máy này đi bán ma túy thì ông Trần Vũ P không biết).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng tiền Việt Nam do bị cáo Phan Thị Huyền T bán ma túy mà có.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Hội đồng xét xử xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, hộ nghèo, có đơn xin miễn nộp. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo Phan Thị Huyền T được miễn nộp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Thị Huyền T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm n,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo:

PHAN THỊ HUYỀN T: 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a,b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a,b,c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín số 33/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có 0,721 gam ma túy loại Heroine và toàn bộ bao gói các mẫu vật sau giám định; 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín số 01 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, tỉnh Q, bên trong phong bì có 01 cân điện tử mini màu đen hiệu Pocket scale được đựng trong một túi da màu đen, 01 đĩa cân nhựa màu đen và 01 dao lam đã qua sử dụng; 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín số 02 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, tỉnh Q, bên trong phong bì có 01 khẩu trang y tế màu xanh trắng đã qua sử dụng, 01 bao lilon trong suốt, 17 mảnh giấy bạc màu trắng và 01 (một) phong bì đã được niêm phong dán kín số 03 của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện S, tỉnh Q, bên trong phong bì có 01 bao thuốc lá Prince, trong bao thuốc có 04 điếu thuốc lá Prince và 01 mảnh giấy bạc màu trắng.

Tuyên trả cho ông Trần Vũ P là người quản lý, sử dụng 01 (một) xe máy nhãn hiệu SYM – moto SYAR110 màu xanh, biển kiểm soát 43F1-xxxxx đã qua sử dụng, số khung, số máy không kiểm tra.

(Hiện các vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện S, tỉnh Q theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/6/2020).

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền Việt Nam là số tiền do bị cáo Phan Thị Huyền T bán ma túy mà có (Hiện đang tạm gởi tại tài khoản số 3949.0.1053629.00000 của Công an huyện S tại Kho bạc Nhà nước huyện S, tỉnh Q).

Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Phan Thị Huyền T được miễn nộp.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm. Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hình sự sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 17/2020/HS-ST

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về