Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 163/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 163/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 148/2022/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh ngày 11/02/2000; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn V, xã T, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Lê Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/11/2017, Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn L về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác” mức phạt 1.250.000đ. L chưa chấp hành Quyết định trên nhưng đến nay đã hết thời hiệu thi hành Quyết định xử phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/6/2022 đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Anh Phùng Văn D, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố M, phường K, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ ngày 10/6/2022, Nguyễn Văn L đang ở nhà của mình cùng với bạn gái là Bàn Khánh H (tên gọi khác là An) thì nhận được điện thoại qua ứng dụng Facebook Messenger của một nam thanh niên tên là T nhà ở xã H, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (là bạn quen biết ngoài xã hội với L). Qua nói chuyện điện thoại, T nói với L đang có người muốn mua 01 chỉ ma túy “ke” cùng 06 viên ma túy “kẹo” và bảo L đi lấy ma túy để bán. L đồng ý, T nói với L đi đến khu vực chung cư Bảo Quân thuộc phường K, thành phố Vĩnh Yên sẽ có người giao ma túy cho L, L đem ma túy đi bán lấy số tiền 5.200.000đ (Năm triệu hai trăm nghìn đồng) cầm về cho T. L đồng ý và rủ H đi ra thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc chơi. Sau đó, L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88B1- 209.80 chở H đến khu vực chung cư Bảo Quân thuộc phường K, thành phố Vĩnh Yên. Đến cổng chung cư, L dừng xe và bảo H đứng chờ còn L đi vào khu vực sân của chung cư. Một lúc sau, có một người nam giới (L không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này) đi đến gặp L thì người này đưa cho L 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng L, bên trong có ma túy kẹo và ma túy ke. L cầm vỏ bao thuốc lá có chứa ma túy, còn người nam giới đi đâu không rõ. Đúng lúc này, T nhắn tin cho L số điện thoại 0395.817.362 của người mua ma túy qua tin nhắn Facebook Messenger để L liên hệ giao dịch mua bán ma túy. L gọi điện đến số điện thoại 0395.817.362 thì có một người nam giới nghe máy. Qua nói chuyện điện thoại, L hỏi người này địa chỉ để mang ma túy đến bán thì người nam giới hẹn L đến khu vực gần cổng khách sạn Ngọc Hà thuộc phường K, thành phố Vĩnh Yên để trao đổi mua bán ma túy. Sau đó, L tắt máy rồi quay lại đón H đi cùng đến điểm hẹn để giao dịch mua bán ma túy. Trước khi L gặp Phùng Văn D đang đứng một mình thì L có dừng xe, bảo H đứng chờ rồi một mình đi đến gặp D . Khi L và D đang trao đổi mua bán ma túy với nhau thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ trong lòng bàn tay trái của Nguyễn Văn L 01 vỏ bao thuốc lá, nhãn hiệu Thăng L, bên trong có 01 gói ni lon chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng bên trong có 06 viên nén hình tam giác màu xanh (L tự khai nhận đây là số ma túy kẹo và ma túy ke của L mang đi để bán nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt giữ) niêm phong vào một phong bì thư theo thủ tục pháp luật, ký hiệu A1. Thu của L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đỏ, đã qua sử dụng có số IMEI 1: 357375093078629; IMEI 2: 357375093167679, có 01 sim có số thuê bao: 0981.585.698; tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu SH, biển kiểm soát 88B1 - 209.80 màu sơn trắng đen, đã qua sử dụng;

01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn L. Ngoài ra, Cơ quan Công an thu giữ của Phùng Văn D số tiền 500.000đ (D tự khai nhận đây là tiền D chuẩn bị để mua ma túy của L nhưng chưa kịp mua thì bị bắt).

Ngày 11/6/2022, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn L tại thôn V, xã T, huyện Bình Xuyên. Quá trình khám xét không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại Kết luận giám định số 1724/KLGĐ ngày 15/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh kết luận:

“06 (Sáu) viên nén màu xanh có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 2,3953g (Hai phảy ba chín năm ba gam, không kể bao bì) loại MDMA.

- Tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,8322g (Không phảy tám ba hai hai gam, không kể bao bì) loại Ketamine”.

Hoàn trả mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, gồm: A1 viên nén = 2,3258 gam và mẫu A1 tinh thể = 0,7882 gam cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao giấy gói “MẪU TRẢ”.

Ngày 11/6/2022, tiến hành kiểm tra chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone vỏ màu đỏ, có số IMEI 1: 357375093078629; IMEI 2: 357375093167679, có 01 sim có số thuê bao: 0981.585.698. Kết quả kiểm tra: Có 27 cuộc gọi Messenger video, âm thanh và tin nhắn Messenger với tài khoản Facebook “Nguyễn Thanh T” được lưu trữ từ ngày 05/6/2022 đến ngày 10/6/2022, Nguyễn Văn L xác nhận là các cuộc gọi và tin nhắn của T ở H, Bình Xuyên gọi và nhắn cho L. Từ 21 giờ 51 phút đến 22 giờ 10 phút ngày 10/6/2022 là các cuộc gọi của T bảo L đi bán ma túy và nhắn tin số điện thoại của người cần mua ma túy để L liên hệ là số 0395.817.362 Công an tỉnh đã tiến hành niêm phong chiếc điện thoại trên vào một phong bì thư ký hiệu B1.

Ngày 11/7/2022, Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 350, yêu cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh giám định kỹ thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại thu giữ của L được niêm phong ký hiệu B1 để khôi phục và trích xuất tin nhắn Facebook Messenger giữa tài khoản của Nguyễn Văn L với tài khoản có tên “Nguyễn Thanh T” và xác định thông tin chủ tài khoản Facebook có tên “Nguyễn Thanh T”. Tại Kết luận giám định số 2274/KLGĐ ngày 29/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chụp được 15 ảnh nội dung tin nhắn ứng dụng Facebook Messenger được cài đặt trên điện thoại di động nhãn hiệu Iphone gửi giám định giữa tài khoản Facebook được đăng nhập trong ứng dụng với tài khoản Facebook có tên Nguyễn Thanh T, chi tiết ảnh được thể hiện trong bản ảnh giám định. Không xác định được thông tin chủ tài khoản Facebook có tên Nguyễn Thanh T”.

Ngày 09/8/2022, Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 398, yêu cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh giám định số khung, số máy xe mô tô biển kiểm soát 88B1- 209.80 thu giữ của Nguyễn Văn L ngày 10/6/2022 để xác định số khung, số máy nguyên thủy của chiếc xe mô tô trên. Tại bản Kết luận giám định số 2571/KLGĐ ngày 25/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh, kết luận: “Số khung, số máy của chiếc xe mô tô gửi giám định không bị tẩy xóa, sửa chữa, qua giám định xác định số khung nguyên thủy là: RLHJF4214DY061293; Số máy nguyên thủy là: JF42E- 0061303.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn L khi bắt quả tang, L khai nhận: Tối ngày 10/6/2022, sau khi nhận được điện thoại của T qua ứng dụng Facebook Messenger, L đã đi đến khu vực sân chung cư Bảo Quân thuộc địa bàn phường K, thành phố Vĩnh Yên và nhận ma túy của một người nam giới L không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do người này đeo khẩu trang nên L không nhìn thấy mặt, chỉ nhớ người này có dáng người gầy, mặc áo cộc tay màu đen, quần dài màu đen. Quá trình điều tra, đã tiến hành xác minh tại phường K, thành phố Vĩnh Yên nhưng không xác định được đối tượng nào có đặc điểm như L khai báo, ngoài lời khai của L không có căn cứ nào khác để xác định chính xác về người nam thanh niên đã giao ma túy cho L để L mang đi bán. Do vậy, Công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục điều tra, xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 156/CT-VKSTPVY ngày 11/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Văn L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 2,3953g ma túy MDMA và 0,7882g ma túy Ketamine và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định.

Trả lại cho Nguyễn Văn L 01 căn cước công dân.

Tịch thu bán để sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của Nguyễn Văn L.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ thu giữ của Phùng Văn D .

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/6/2022, tại khu vực cổng khách sạn Ngọc Hà thuộc tổ dân phố Vinh Thịnh Đông, phường K, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn L có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phùng Văn D nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng có khối lượng 0,8322g qua giám định xác định là ma túy Ketamine và 01 túi nylon bên trong có 06 viên viên nén hình tam giác màu xanh có tổng khối lượng là 2,3953g qua giám định xác định là ma túy MDMA.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính Phủ quy định về việc tính khối lượng chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự quy định như sau: “Trường hợp các chất ma túy đều có khối lượng hoặc thể tích dưới mức tối thiểu đối với từng chất đó theo quy định tại khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, thì xác định tổng khối lượng các chất ma túy theo trình tự quy định tại Nghị định này để xử lý. Trong vụ án này, khối lượng chất ma túy MDMA là 2,3953g (theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự); khối lượng các chất ma túy khác ở thể rắn là 0,8322g (theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự). Do vậy tổng khối lượng các chất ma túy là: (2,3953g/ 5g + 0,8322g/20g) x 100 = 52% (dưới 100%) nên tổng khối lượng chất ma túy MDMA và chất ma túy khác ở thể rắn thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính. Hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản và nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với những người có liên quan đến vụ án gồm:

Đối với Phùng Văn D là người thỏa thuận mua ma túy của L với mục đích để sử dụng nhưng D chưa mua được ma túy thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ. Do vậy, chưa đủ căn cứ để xử lý đối với D về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy nên cơ quan điều tra tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương nơi D cư trú, quản lý giáo dục.

Đối với người nam thanh niên sử dụng số thuê bao điện thoại 0395.817.362 để gọi điện giúp Phùng Văn D hỏi mua ma túy vào tối ngày 10/6/2022 tại khu vực gần cổng Khách sạn Ngọc Hà thuộc địa phận phường K, thành phố Vĩnh Yên. Quá trình điều tra xác định, D không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của nam thanh niên này, chỉ biết người này khoảng 30 tuổi, cao khoảng 1,7m, dáng người gầy, da trắng, tóc cắt ngắn. Ngày 11/7/2022, Công an thành phố Vĩnh Yên đã có công văn đề nghị Ban thanh tra kiểm toán, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội Viettel xác minh thông tin chủ sở hữu, nhật ký cuộc gọi đến, cuộc gọi đi của số thuê bao 0395.817.362 ngày 10/6/2022. Kết quả tra cứu, chủ thuê bao số 0395.817.362 là Nguyễn Hữu D, sinh ngày: 24/4/1990, địa chỉ: Số197, đường số 8, B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 25/8/2022, Công an thành phố Vĩnh Yên đã ủy thác cho Công an Quận B, thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xác minh xác định hiện tại Duy và gia đình không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu, làm gì. Ngoài lời khai của Phùng Văn D không có căn cứ gì khác để xác định chính xác về đối tượng đã giúp D gọi điện hỏi mua ma túy ngày 10/6/2022. Do vậy, Công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với nam thanh niên tên T có tài khoản Facebook Messenger “Nguyễn Thanh T” là người đã chỉ đạo L mang ma túy đi bán ngày 10/6/2022. Quá trình điều tra xác định, L chỉ biết người này tên T có tài khoản Facebook “Nguyễn Thanh T”, sinh năm 1998, nhà ở xã H, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. L không biết họ tên đầy đủ, nhân thân lai lịch của T. Cơ quan điều tra Công an tỉnh đã tiến hành xác minh tại xã H, huyện Bình Xuyên nhưng chưa xác định được nam thanh niên tên T có đặc điểm như Nguyễn Văn L đã khai báo, ngoài lời khai của Nguyễn Văn L không có căn cứ gì khác để xác định chính xác về đối tượng T. Do vậy Công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục điều tra, xác minh nếu làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Đối với Bàn Khánh H (tên gọi khác là An) là người đi cùng Nguyễn Văn L ngày 10/6/2022, quá trình điều tra xác định, L không nói cho H biết việc L đi bán ma túy nên H không biết và không liên quan đến việc bán ma túy của L. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với H trong vụ án này.

Đối với số thuê bao 0397.631.996 được trích xuất từ bản ảnh giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh trong đoạn tin nhắn Messenger của T với L ngày 05/6/2022 và theo L khai nhận, thì đây là số thuê bao của một khách hàng của T cần mua ma túy (L không biết người này là ai? ở đâu?). Tuy nhiên, sau đó không biết lý do vì sao người này báo lại không mua ma túy nên L không đi bán ma túy ngày hôm đó. Do vậy không có đủ căn cứ để tiến hành điều tra, xác minh về chủ thuê bao này.

[6] Về vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại SH 125i biển kiểm soát: 88B1- 209.80, có số máy: JF42E - 0061303; số khung: RLHJF4214DY061293 đã cũ, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Văn L ngày 10/6/2022, quá trình điều tra xác định: Chiếc xe trên là do L mượn của chị Nguyễn Thị Thu H (là chị gái ruột của L), khi mượn xe L chỉ nói để đi chơi và không nói cho chị Hà biết dùng xe này để đi bán ma túy. Quá trình điều tra xác định: Chị H mua lại chiếc xe mô tô trên của một nam giới tên Minh (chị Hà không nhớ họ tên đầy đủ, địa chỉ cụ thể của người này) tại khu vực Bến xe mới thuộc địa phận phường K, thành phố Vĩnh Yên vào cuối năm 2021. Quá trình mua bán, anh M và chị H có ký giấy bán xe, sau đó giao lại cho chị Hà quản lý cùng Giấy đăng ký xe. Đến khoảng tháng 5/2022, trên đường đi làm từ thành phố Hà Nội về nhà tại tỉnh Vĩnh Phúc, chị H đã làm rơi mất ví bên trong có giấy đăng ký xe và Giấy bán xe Minh viết cho. Chị H không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ cụ thể của Minh, chỉ biết Minh nhà ở phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên.

Tiến hành tra cứu xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại SH 125i có số máy: JF42E- 0061303; số khung: RLHJF4214DY061293 đã cũ, đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định, không có thông tin chủ đăng ký, sở hữu đối với chiếc xe này. Do vậy, cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra, xác minh, khi nào làm rõ nguồn gốc xe sẽ xử lý sau.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu đỏ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Văn L sử dụng để trao đổi mua bán ma túy. Do vậy cần tịch thu bán để sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 2,3258g túy MDMA và 0,7882g Ketamine và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn L cần trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 500.000đ thu giữ của Phùng Văn D sử dụng để mua ma túy của Nguyễn Văn L cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 10/6/2022).

3. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 2,3258g viên nén và 0,7882g tinh thể cùng toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định. Tịch thu bán để sung Ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của Nguyễn Văn L. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đ thu giữ của Phùng Văn D . Trả lại cho Nguyễn Văn L 01 căn cước công dân (tài sản có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/11/2022).

4. Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 163/2022/HS-ST

Số hiệu:163/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về