Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 161/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 161/2023/HS-PT NGÀY 17/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1053/2022/TLPT-HS ngày 01/11/2022; do có kháng cáo của các bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4 và Nguyễn Thị Phương A8 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Đinh Quang A, tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/02/1984 tại Lạng Sơn;

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn TN, xã QK, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Thanh A1 và bà Đinh Thị A2; có vợ Nguyễn Thị A3, sinh năm 1984 và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 01/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” (bị cáo đã chấp hành xong phần hình phạt tù); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2020 đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Ngọc A4, tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/8/1980 tại Lạng Sơn;

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn TN, xã QK, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Việt A5 và bà Đinh Thị A6; có vợ Hứa Thị A7, sinh năm 1982 và 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2012/HS-ST ngày 10/5/2012 của Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm về tội Mua bán trái phép vật liệu nổ (đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2020 đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Thị Phương A8, tên gọi khác: Không; sinh ngày 19/9/1971 tại Hải Phòng;

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 220 đường CT, phường HL, quận HB, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú và chỗ ở trước khi bị bắt: Ấp VP A, xã VP Đông, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành A9 và bà Đỗ Thị A10 (đều đã chết); có chồng Trần Văn A11 (đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2022 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Đinh Quang A: Ông Nguyễn Tài A12, Luật sư Văn phòng Luật sư N - H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc A4: Ông Lâm Xuân A13, Luật sư Văn phòng Luật sư N – H thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Phương A8: Ông Vũ Văn A14, Luât sư Văn phòng Luật sư VĐ thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 09/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn khám xét nơi ở của Nguyễn Ngọc A4 và Đinh Quang A đều tại thôn TN, xã QK, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn.

Thu giữ tại nhà Đinh Quang A 01 khẩu súng ngắn ký hiệu 1967815, trong hộp tiếp đạn có 03 viên đạn; 01 xe ô tô biển kiểm soát 12A-123.13; 80.700.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 đăng ký xe ô tô mang tên Đinh Quang A;

01 thẻ ATM mang tên Đinh Quang A, trong tài khoản có 33.000.000đ; 01 giấy chứng nhận kiểm định.

Thu giữ tại nhà Nguyễn Ngọc A4 02 túi nilon trong suốt, bên trong mỗi túi đứng 01 bánh hình hộp chữ nhật màu xanh cùng có kích thước (15,5 x 10 x 2,5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

Ngoài ra còn thu giữ của Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 02 điện thoại di động và một số giấy tờ tùy thân khác.

Tại Kết luận giám định số 320/KLGĐ-PC09, ngày 12/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: 02 bánh chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc A4 gửi giám định là ma túy loại Heroine, có tổng khối lượng là 703,020 gam.

Tại Kết luận giám định số 399/KLGĐ-PC09 ngày 12/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Khẩu súng gửi giám định là vũ khí quân dụng lolt M1911Al (colt 45), hiện tại khẩu súng vẫn sử dụng được; 03 viên đạn gửi giám định đều là đạn quân dụng cỡ (11,43 x 23)mm.

Quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm đã xác định được:

Trong khoảng tháng 5/2019, Đinh Quang A sang Trung Quốc làm thuê và quen biết người đàn ông Trung Quốc làm bốc vác hàng hóa cùng A. Quá trình làm việc cùng nhau, người này nhờ A liên lạc với Nguyễn Thị Phương A8 có nhà ở thị trấn TK, huyện TĐ và cho A tài khoản Wechat của A8, sau đó A và A8 thường xuyên liên lạc với nhau. Khoảng đầu tháng 9/2020, Nguyễn Thị Phương A8 gọi điện thoại cho A hẹn A ra thị trấn TK nói chuyện, A đã rủ Nguyễn Ngọc A4 đi cùng và đến gặp A8 tại một quán cà phê. Quá trình nói chuyện, A8 cho A và A4 biết A8 có ma túy Heroine bán và bảo A sang Trung Quốc tìm người mua; A8 nói với A giá một bánh là 200.000.000đ, A nói với A8 để A tìm người mua ma túy ở Trung Quốc, nếu được A sẽ liên lạc với A8. Do không có việc làm, đến cuối tháng 9/2020, A rủ A4 cùng tham gia mua bán ma túy và thỏa thuận cùng nhau góp tiền mua ma túy với A8 để đem sang Trung Quốc bán kiếm lời. Việc tìm người mua ma túy ở Trung Quốc do A tìm mối, cả hai thống nhất mua với A8 02 bánh ma túy, sau khi bán ma túy lãi sẽ chia đôi; A4 đồng ý. Do trong thời gian làm việc bên Trung Quốc, A quen biết một người đàn ông tên là NT nên khoảng giữa tháng 10/2020, A liên lạc với NT đặt vấn đề tìm người mua ma túy thì được NT cho biết có người mua ma túy với giá 7 vạn 6 nhân dân tệ (tiền Trung Quốc), sau đó A cho NT biết A có ma túy bán và NT bảo A có ma túy thì đem bán cho NT.

Sau khi tìm được nguồn tiêu thụ ma túy, Đinh Quang A liên lạc với Nguyễn Thị Phương A8 đặt mua 02 bánh ma túy Heroine, A8 và A thỏa thuận 02 bánh ma túy là 400.000.000đ, A8 yêu cầu A đặt trước 100.000.000đ, số còn lại khi bán được ma túy sẽ trả hết. Sau đó A liên lạc với NT bảo đã lấy 02 bánh ma túy và yêu cầu NT chuyển cho 1 vạn nhân dân tệ, NT đồng ý, Đinh Quang A đã cho NT số tài khoản Ngân hàng AGRIBANK của A cho NT; A nói cho A4 biết đã mua 02 bánh ma túy và còn thiếu 30.000.000đ và bảo A4 chuẩn bị tiền đưa cho A để mua ma túy. Ngày 05/11/2020, NT đã cho người chuyển 33.000.000đ đến tài khoản của A. Ngày 06/11/2020, Nguyễn Ngọc A4 đưa cho A 10.000.000đ và 5.000NDT, A đã lấy 50.000.000đ tiền của mình rồi cùng A4 ra thị trấn TK và đổi 5.000NDT được 16.000.000 đồng, tổng cộng cả hai có 76.000.000đ. A đã gọi cho A8 hẹn ra quán cà phê gần đầu cầu BT, thuộc xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn để gặp A8, sau đó A cùng A4 đi xe ô tô của A ra nơi đã hẹn gặp A8. Tại đây A nói với A8 chỉ có 76.000.000đ đặt mua 02 bánh ma túy. A8 đồng ý và nói cho A, A4 biết khi nào có ma túy sẽ gọi điện thoại cho A để A đến nhận ma túy.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/11/2020, A8 gọi điện thoại cho A ra đầu cầu BT để nhận ma túy, A và A4 cùng ra nơi A8 đang chờ, sau khi gặp nhau, A8 đi xe Mô tô đi vào nhà trọ của bà Nguyễn Thị A15, sinh năm 1973, trú tại thôn Bản Mạ, xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn còn A và A4 đợi ở ngoài quốc lộ 4A, khoảng 05 phút sau có một người đàn ông đeo khẩu trang đi từ trong nhà trọ ra đem theo 02 bánh ma túy được giấu trong chiếc áo len màu nâu đi ra xe ô tô và đưa cho A. A nhận ma túy và đưa cho A4 cầm rồi cả hai đem về nhà A4 cất giấu để đợi A liên lạc với người Trung Quốc đem bán. Nguyễn Ngọc A4 đã đem 02 bánh ma túy sang nhà bố vợ của mình là ông Hứa Văn A16 ở thôn TN, xã QK, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn cất giấu trên nóc tủ.

Sáng ngày 09/11/2020, NT gọi qua ứng dụng Wechat cho A bảo A mở 02 bánh ma túy ra và quay video gửi cho NT kiểm tra, Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 đã đem 02 bánh ma túy ra quay video rồi gửi cho NT và cất ma túy vào chỗ cũ. Sau khi kiểm tra xong NT thông báo lại cho A nội dung là để chuẩn bị tiền, khi nào NT gọi điện thoại báo mang ma túy sang Trung Quốc bán thì A mới mang sang; A đồng ý. Căn cứ vào tin tố giác của quần chúng nhân dân, ngày 09/11/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn đã khám xét nhà ông Hứa Văn A16 và phát hiện thu giữ các vật chứng của Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 như đã nêu trên. Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Căn cứ tài liệu điều tra; lời khai nhận của các bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4 và các tài liệu khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã khởi tố đối với Nguyễn Thị Phương A8 để điều tra, nhưng Nguyễn Thị Phương A8 đã bỏ trốn. Ngày 06/5/2022, Nguyễn Thị Phương A8 đã bị bắt theo Lệnh truy nã.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Phương A8 khai nhận:

Vào khoảng tháng 3/2019, Nguyễn Thị Phương A8 sang Trung Quốc làm thuê và quen biết Lô Văn A17 (Lô Văn A18), sinh năm 1970, trú tại thôn PL, xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình làm thuê tại Trung Quốc, A8 quen biết một nam thanh niên người Việt Nam có tên là Lò Quốc A19 hoặc Lò Quốc A20 (không biết tên thật, địa chỉ cụ thể) sinh sống tại xã TC, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Tháng 6/2019, A8 và Lô Văn A17 về sinh sống cùng nhau tại nhà của Lô Văn A21, sinh năm 1979 tại thôn PL, xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn. Quá trình sinh sống tại đây, A8 quen biết Đinh Quang A và cho nhau số điện thoại, kết bạn Zalo với nhau. Thời gian này, A8 cũng liên lạc với Lò Quốc A19 (A20) và được biết Lò Quốc A19 cũng đã về Việt Nam sinh sống tại nơi ở của mình tại xã TC, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Qua nói chuyện A8 được Lò Quốc A19 nói cho biết ở Điện Biên có nhiều hàng (nhưng không biết là hàng gì), nếu ai tìm mua hàng thì giới thiệu cho A19.

Khoảng giữa tháng 8/2020, A8 nhận được điện thoại của Đinh Quang A hỏi tìm nguồn ma túy và giới thiệu cho A mua thì được A8 trả lời không có. Được 10 ngày sau, A tiếp tục gọi điện thoại tìm và hỏi A8 mua ma túy thì A8 nhớ đến Lò Quốc A19 nên A8 nói với A biết việc A8 quen biết A19 ở Điện Biên và A8 gửi tài khoản Zalo của A19 cho A để cả hai tự trao đổi mua bán ma túy. Đến cuối tháng 9/2020, A8 nhận được tin nhắn Zalo của A19 nói cho A8 biết A19 đã đem Trầm hương xuống Lạng Sơn cho A và bảo A8 hẹn gặp A lấy tiền cọc mua hàng với số tiền là 70.000.000đ và sẽ trả công cho A8 30.000.000đ, A8 đồng ý. Sau đó A8 liên lạc với A và hẹn A đến quán cà phê ở cầu BT thuộc xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn để lấy tiền cọc. Sau khi đến quán cà phê, A8 thấy A đi cùng Nguyễn Ngọc A4, tại đây A nói với A8 chỉ có 30.000.000đ, không đủ 70.000.000đ như đã thỏa thuận, A8 nói A việc trao đổi mua hàng thống nhất với Lò Quốc A19, A8 không biết nên A, A4 đi về nhà. Hai ngày sau, A gọi điện cho A8 hẹn ra quán cà phê hôm trước để đưa tiền đặt cọc cho A8. A8 ra quán gặp A và A4, tại đây A đưa cho A8 số tiền 70.000.000đ, đồng thời A bảo A8 khi hàng đến thì gọi A ra nhận. Khoảng 10 giờ ngày 08/11/2022, Lò Quốc A19 gọi điện thoại cho A8 nói đã cho người vận chuyển hàng xuống đến cầu BT và bảo A8 gọi A ra nhận. Sau khi nghe điện thoại, A8 gọi điện cho A thông báo và hẹn ra cầu BT nhận hàng, sau đó A8 điều khiển xe mô tô ra cầu BT gặp người vận chuyển đến và cùng đi vào nhà trọ của bà Nguyễn Thị A15, sinh năm 1973, trú tại thôn Bản Mạ, xã ĐĐ, huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn đợi. Được khoảng 30 phút sau, A và A4 điều khiển xe ô tô đến và đỗ xe ngoài Quốc lộ 4A, A8 nói với người thanh niên vận chuyển hàng giao hàng cho A. Nhận hàng xong, A và A4 ra về lấy ma túy quay video để gửi cho NT, sau đó Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ khám xét và thu giữ 02 bánh ma túy Heroine như đã nêu. Đối với Nguyễn Thị Phương A8, sau khi Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 đã nhận hàng thì A8 được Lò Quốc A19 gọi điện nói cho A8 biết hàng đã giao cho A là 02 bánh ma túy Heroine, A8 lo sợ đã đón taxi bỏ trốn về thành phố Hải Phòng và tiếp tục đi vào tỉnh Bạc Liêu sinh sống cho đến ngày bị bắt. Số tiền 70.000.000đ nhận với Đinh Quang A, A8 đã tiêu xài hết và không trả lại cho Lò Quốc A19.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 39; Điều 50; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đinh Quang A;

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39; Điều 50; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A4;

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 40; Điều 50; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thị Phương A8;

Tuyên bố bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4, Nguyễn Thị Phương A8 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Quang A tù chung thân và phạt bổ sung 20.000.000đ để sung ngân sách Nhà nước; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A4 tù chung thân; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 tử hình.

Truy thu của bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 số tiền 70.000.000đ để sung vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn quyết định xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/9/2022 bị cáo Nguyễn Ngọc A4, ngày 29/9/2022 bị cáo Đinh Quang A đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 04/10/2022 bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin không truy thu số tiền 70.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày:

- Bị cáo Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 trình bày: Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã thực hiện như bản án sơ thẩm đã mô tả; nhưng với mức hình phạt tù chung thân đối với hai bị cáo là quá nghiêm khắc; các bị cáo đều khai báo thành khẩn, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, nên đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo.

- Bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 trình bày: Bị cáo không trực tiếp trao đổi, giao dịch mua bán ma túy với A và A4; bị cáo thừa nhận A có hỏi bị cáo biết ai bán ma túy không, bị cáo không biết nhưng có giới thiệu A với A19 để họ tự giao dịch với nhau, sau đó A19 có điện cho bị cáo nhờ gặp A để lấy tiền bán trầm và A19 hóa cho bị cáo 30.000.000đ, nên bị cáo đã gặp A để nhận 70.000.000đ từ A, nhưng sau khi lấy được tiền bị cáo không chuyển cho A mà chi tiêu hết; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thì cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan. Với khối lượng chất ma túy các bị cáo phạm tội là rất lớn, nên cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo ở mức án như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật; tại cấp phúc thẩm không có thêm tình tiết gì mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với kháng cáo về việc không truy thu số tiền 70.000.000đ của bị cáo A8 thấy rằng: Đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có, bị cáo đã sử dụng số tiền này để chi tiêu vào mục đích cá nhân, nên việc truy thu số tiền này để sung công quỹ là có căn cứ.

Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Đinh Quang A trình bày quan điểm bào chữa: Toàn bộ hành vi của bị cáo đã được làm rõ tại phiên tòa, do số hàng hóa bị cáo nhận vận chuyển khi bị bắt giữ là ma túy nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, nguồn gốc ma túy là của đối tượng ở Điện Biên, bị cáo chỉ là phần cuối nên bị cáo đồng phạm với vai trò thứ yếu; bản thân bị cáo có công tố giác tội phạm, có ông nội được tặng huân, huy chương, số lượng ma túy không lớn so với các vụ án khác. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho bị cáo xuống 20 năm tù cũng đủ tính răn đe, giáo dục.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc A4 trình bày: Đồng tình với Luật sư đồng nghiệp, đây là giai đoạn cuối của vụ án nên các bị cáo có vai trò thứ yếu, bị cáo A4 là lao động chính trong gia đình, là người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh khó khăn; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống từ 18 đến 20 năm tù.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 trình bày: Vụ án không chỉ mình bị cáo nên vai trò của bị cáo là đồng phạm với vai trò thứ yếu. Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới, nhưng bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, là mẹ đơn thân một mình nuôi con đang bị bệnh tật được hưởng chế độ trợ cấp của Nhà nước, nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 cho rằng bị cáo không biết ma túy mà A19 chỉ nói cho bị cáo đó là trầm hương, bị cáo cho rằng bị cáo không thỏa thuận, giao dịch việc mua bán ma túy, bị cáo chỉ giới thiệu Lò Quốc A19 cho Đinh Quang A để hai người trao đổi với nhau về việc mua bán ma túy. Nhưng bị cáo thừa nhận chính bị cáo là người trực tiếp nhận số tiền 70.000.000đ từ Đinh Quang A, nên bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm mô tả và quy kết. Xét lời khai của các bị cáo A, A4 thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo A8 trong quá trình điều tra, phù hợp các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt là các tin nhắn được thu giữ, sao kê tài khoản tại Ngân hàng và các kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Sau khi trao đổi, thống nhất việc mua bán trái phép chất ma túy, ngày 08/11/2020 Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4, Nguyễn Thị Phương A8 đã thực hiện hành vi mua bán trái phép 02 bánh ma túy loại Heroine nhằm mục đích đem sang Trung Quốc bán lấy tiền, sau khi thỏa thuận, Đinh Quang A và Nguyễn Ngọc A4 đã góp tiền và trực tiếp đặt cọc cho Nguyễn Thị Phương A8 số tiền 70.000.000đ. Sau khi nhận được ma túy Nguyễn Ngọc A4 mang ma túy về cất giấu, sau đó bị phát hiện và thu giữ. Hành vi đó của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo tội danh trên theo Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do khối lượng ma túy mà các bị cáo mua bán là 703,020 gam Heroine, nên cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử các bị cáo theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Như đã phân tích ở trên thì các bị cáo không bị oan; khi xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất đặc biệt nghiêm trọng do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra; đã phân hóa đúng vai trò của từng bị cáo trong vụ án; cũng đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như: Quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo; tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo A, A4 thành khẩn khai báo và hối hận về việc làm đã thực hiện; bị cáo Đinh Quang A có ông ngoại là Đinh Văn A22 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất; bản thân bị cáo đã cung cấp thông tin về tội phạm cho Cơ quan điều tra trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 chỉ có 01 người con trai là Nguyễn Văn A23hiện đang phải điều trị bệnh tâm thần phân liệt tại Trại Tâm thần VB, thành phố Hải Phòng nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng với khối lượng ma túy các bị cáo mua bán là rất lớn, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật; tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không có thêm tình tiết gì mới làm căn cứ để giảm nhẹ hình phạt, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 liên quan đến truy thu số tiền 70.000.000đ, thấy: Như đã phân tích ở trên, sau khi thỏa thuận xong việc mua bán chất ma túy thì bị cáo A8 đã yêu cầu A, A4 đặt cọc số tiền 100.000.000đ, nhưng A và A4 chỉ đặt cọc được 70.000.000đ; số tiền này bị cáo A8 không chuyển cho người bán ma túy mà giữ lại để tiêu xài cá nhân. Do đó, xác định đây là số tiền bị cáo được hưởng lợi từ hành vi phạm tội, nên Tòa án cấp sơ thẩm truy thu để sung quỹ Nhà nước là có căn cứ, đúng pháp luật; nên kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố Tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4 và Nguyễn Thị Phương A8; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39, Điều 50, Điều 17 Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đinh Quang A;

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39, Điều 50, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A4;

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 40, Điều 50, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thị Phương A8.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4, Nguyễn Thị Phương A8 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt:

1. Xử phạt bị cáo Đinh Quang A tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo Đinh Quang A chấp hành xong hình phạt tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 01/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện TĐ, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” là ngày 09/11/2021. Phạt bổ sung bị cáo A 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách Nhà Nước.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A4 tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/11/2020.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo A8 có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình.

Về biện pháp tư pháp: Truy thu của bị cáo Nguyễn Thị Phương A8 số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về án phí: Các bị cáo Đinh Quang A, Nguyễn Ngọc A4, Nguyễn Thị Phương A8 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 161/2023/HS-PT

Số hiệu:161/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về