Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 156/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 156/2023/HS-ST NGÀY 23/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm- Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương và điểm cầu thành phần- Trại tạm giam Công an tỉnh H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm trực tuyến, công khai vụ án hình sự thụ lý số 139/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Đinh Quang Đ1, sinh năm 2000. ĐKHKTT và chỗ ở: Số H C, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Ngh nghi p: Không. Trình độ học vấn: 11/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đinh Quang T và bà Hà Thị T1. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 71/QĐ-XPVPHC ngày 19/02/2019, bị cáo bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (đã xóa tiền sự). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/6/2023 đến ngày 23/6/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Vũ Đình C, anh Phạm Huy C1 (đều vắng mặt).

* Người tiến hành tố tụng tại điểm cầu thành phần:

- Ông Nguyễn Quang D- Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

- Bà Đặng Thị T2- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

* Người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần: Ông Nguyễn Văn S- Cán bộ Trại tạm giam Công an tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 17/6/2023, Đinh Quang Đ1 mua của một người không quen biết qua mạng xã hội Telegram 01 gói ma túy loại cần sa với số tiền 2.000.000đ. Sau đó Đ1 chia số ma túy thành nhiều túi nhỏ để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Khoảng 11 giờ ngày 19/6/2023, Đ1 cầm theo 01 túi ma túy cần sa (các gói ma túy cần sa khác Đ1 đã sử dụng hết) và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS 34B2- X (mượn của ông Đinh Quang T) đến khu vực sân Ga H thuộc khu F, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương thì gặp đối tượng tự khai là Nguyễn Văn T3- sinh năm 1992, địa chỉ: Khu C, phường H, thành phố H, tỉnh Hải Dương. T3 hỏi mua và Đ1 đồng ý bán ma túy cần sa cho T3. T3 đưa cho Đ1 số tiền 300.000đ; Đ1 đưa cho T3 01 túi ma túy cần sa thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong tay phải của Đ1 đang cầm số tiền 300.000đ; thu giữ trong tay phải của T3 đang cầm 01 túi nilon màu trắng, kíchấthước khoảng (5 x 7)cm, bên trong có chứa các lá thực vật khô màu nâu; thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS 34B2-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 34B2-X mang tên Đinh Quang T.

Tại kết luận giám định số 320/KL-KTHS ngày 21/6/2023, Phòng K Công an tỉnh H kết luận: Các mảnh thực vật khô màu nâu trong túi nilon mầu trắng được niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn T3 gửi giám định có tổng khối lượng là 2,082g là ma túy, loại cần sa.

Quá trình điều tra: Đinh Quang Đ1 khai nhận thực hiện hành vi như đã nêu trên. Không xác định được lý lịch của đối tượng đã bán ma túy cho Đ1. Xác minh tại địa chỉ khu C, phường H, thành phố H, tỉnh Hải Dương thì không có ai là Nguyễn Văn T3- sinh năm 1992. Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS 34B2-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 34B2-X cho ông Đinh Quang T.

Tại Cáo trạng số 136/CT-VKSTPHD ngày 23/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố Đinh Quang Đ1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (viết tắt: BLHS).

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy như Viện kiểm sát truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Đinh Quang Đ1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Xử phạt Đinh Quang Đ1 từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/6/2023. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ. Tịch thu tiêu huỷ 1,954g ma túy loại cần sa; 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Toà án nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo:

[1.1] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 19/6/2023, tại sân Ga H thuộc khu F, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Đinh Quang Đ1 có hành vi bán trái phép 2,082g ma túy loại cần sa cho đối tượng tự khai tên Nguyễn Văn T3 với giá 300.000đ thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

[1.2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Lượng ma túy bị cáo bán trái phép là 2,082g cần sa; cần sa nằm trong danh mục ID, số thứ tự 1 của Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng và là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử sẽ xem xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản có giá trị kinh tế lớn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng:

[4.1] Số tiền 300.000đ thu giữ của bị cáo Đ1 là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[4.1] Đối với 1,954g ma túy loại cần sa là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4.2] Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, BKS 34B2-X thuộc quyền sở hữu của ông Đinh Quang T. Ông T không biết việc phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra trả lại xe mô tô và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô BKS 34B2-X cho ông T là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Về tố tụng và các vấn đề khác: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp. Không xác minh được lý lịch của đối tượng bán ma túy cho bị cáo và đối tượng mua ma túy của bị cáo nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38, điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Quang Đ1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Đinh Quang Đ1 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 19/6/2023.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đựng trong phong bì niêm phong số 188/KL-KTHS của Phòng K Công an tỉnh H.

- Tịch thu tiêu hủy 1,954g ma túy loại cần sa, 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 320/KL-KTHS của Phòng K Công an tỉnh H.

Tình trạng và đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2023 giữa Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương.

4. Buộc Đinh Quang Đ1 phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 156/2023/HS-ST

Số hiệu:156/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về