TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 155/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 162/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 162/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
Trịnh Hải S (tên gọi khác: Không), sinh ngày 19 tháng 5 năm 1994; tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: X, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Trịnh Văn S, sinh năm 1966 và bà Trần Thị T, sinh năm 1968; vợ Cầm Thị Nguyệt T (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2017; tiền án: Ngày 28/11/2022 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc; tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01 tháng 6 năm 2023 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 10 phút ngày 01/6/2023, tổ công tác đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về kinh tế ma túy Công an thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 05, phường Quyết T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang Trịnh Hải S đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột, tinh thể màu trắng và 01 gói giấy bạc bên trong có 07 viên nén màu hồng đồng dạng, S khai là Ketamine và Hồng phiến cất giữ để bán kiếm lời.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Hải S khai nhận hành vi phạm tội như sau: Do cần tiền tiêu sài nên khoảng 09 giờ ngày 01/6/2023, Trịnh Hải S đi xe taxi đến khu vực bến xe khách Sơn La thuộc tổ 01, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La tìm mua ma túy về để bán kiếm lời. Đến nơi, S gặp và mua được của một người nam giới không biết tên tuổi 01 gói bột, tinh thể màu trắng ma túy loại Ketamine với số tiền 1.500.000 đồng và 07 viên hồng phiến với số tiền 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Sơn cất vào túi quần đang mặc rồi đi xe taxi về nhà. Đến khoảng 18 giờ 50 phút cùng ngày, Sơn lấy túi ma túy Ketamine đổ một ít sang túi nilon màu trắng khác rồi cất giấu gói nilon chứa ma túy Ketamine lúc đầu xuống dưới đệm trên giường trong phòng ngủ của Sơn. Sau đó, S cất gói ma túy Ketamine vừa chia và gói giấy bạc chứa 07 viên hồng phiến vào túi quần phía trước bên phải đang mặc, rồi đi bộ ra ngoài đường tìm người mua ma túy để bán thì bị Cơ quan công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Ngày 01/6/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đến tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Hải S tại tổ 5, phường Quyết T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La kết quả thu giữ: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột, tinh thể màu trắng Sơn khai là Ketamine cất giữ để bán kiếm lời.
Ngày 01 tháng 6 năm 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: Chất bột, tinh thể màu trắng thu giữ khi bắt quả tang có khối lượng 1,18 gam, lấy 0,55 gam cho vào túi nilon màu trắng gửi giám định ký hiệu V. Còn lại 0,63 gam cho vào túi nilon màu trắng lưu kho tang vật ký hiệu H; 07 viên nén màu hồng đồng dạng thu giữ khi bắt quả tang có khối lượng 0,63 gam, lấy 03 viên có khối lượng 0,27 gam cho vào túi nilon màu trắng gửi giám định ký hiệu V1, còn lại 04 viên có khối lượng 0,36 gam cho vào túi nilon màu trắng lưu kho ký hiệu H1; 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột, tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo có khối lượng 5,30 gam, lấy 1,72 gam cho vào túi nilon màu trắng gửi giám định ký hiệu V2, còn lại 3,58 gam cho vào túi nilon màu trắng lưu kho ký hiệu H2.
Kết luận giám định số 1439/KL-KTHS ngày 05/6/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
Mẫu ký hiệu V, V2 gửi giám định là ma túy; loại Ketamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là V= 0,55 gam, V2 = 1,72 gam.
Mẫu ký hiệu V1 gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,27 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 6,48 gam; loại Ketamine và 0,63 gam; loại Methamphetamine.
Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Về nguồn gốc 6,48 gam Ketamine và 0,63 gam loại Methamphetamine: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực cổng Bến xe khách Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.
Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 386/CT-VKSTP ngày 16/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Trịnh Hải S về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trịnh Hải S phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Trịnh Hải S từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm tù, tổng hợp hình phạt với bản án số 15/2022/HSST ngày 28/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: 0,63 gam Ketamine ký hiệu H; 0,36 gam Methamphetamine ký hiệu H1; 3,53 gam Ketamine ký hiệu H2; 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 túi nilon màu trắng; 01 mảnh giấy bạc.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Hải S nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Trịnh Hải S khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát thành phố Sơn La đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Ngày 01/06/2023, Trịnh Hải S đã có hành vi cất giấu trái phép 6,48 gam Ketamine và 0,63 gam loại Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 5, phường Quyết T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ: Lời khai nhận tội của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng vật chứng thu giữ là 6,48 gam Ketamine và 0,63 gam loại Methamphetamine; Biên bản khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Hải S; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Kết luận giám định; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết luận điều tra.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Hải S đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố và Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xét xử bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xét cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.
[4] Xét tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Ngày 28/11/2022 bị cáo Trịnh Hải S bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND phường Quyết T nhận được bản sao bản án và Quyết định thi hành án là ngày 11/01/2023 về tội Đánh bạc. Ngày 01/6/2023 khi đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ông nội bị cáo được tặng thưởng Huân Chương kháng chiến hạng ba đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo. Bị cáo không biết rõ tên tuổi, địa chỉ. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.
[7] Vật chứng vụ án: Đối với 0,63 gam Ketamine ký hiệu H; 0,36 gam Methamphetamine ký hiệu H1; 3,53 gam Ketamine ký hiệu H2; còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 túi nilon màu trắng; 01 mảnh giấy bạc là vật bị cáo dùng để cất giấu ma túy, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
[8] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tuyên bố bị cáo Trịnh Hải S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trịnh Hải S 5 (năm) năm tù. Tổng hợp hình phạt còn lại sau khi đã chuyển đổi từ cải tạo không giam giữ thành tù có thời hạn của bản án số 15/2022/HSST ngày 28/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La là 02 tháng 13 ngày tù. Buộc bị cáo Trịnh Hải S chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 5 (năm) năm 2 (hai) tháng 13 (mười ba) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 01/06/2023).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy: Đối với 0,63 gam Ketamine ký hiệu H; 0,36 gam Methamphetamine ký hiệu H1; 3,53 gam Ketamine ký hiệu H2; 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 02 túi nilon màu trắng; 01 mảnh giấy bạc.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/8/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Trịnh Hải S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Trịnh Hải S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/9/2023).
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 155/2023/HS-ST
Số hiệu: | 155/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về