Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 155/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 155/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 28 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 143/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 09 năm 2021 theo Quyết định đưa ra xét xử số 154/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 09 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Phạm Thị T, sinh năm 1997; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn 5, xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Phạm Đình Niên, sinh năm 1962; họ tên mẹ: Phạm Thị CH, sinh năm 1964; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; bị cáo chưa có chồng con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 21/01/2021 đến ngày 30/01/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị H, sinh năm 2000; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm T, xã S, thị xã Y, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn K, sinh năm 1976; họ tên mẹ: Lê Thị Huệ, sinh năm 1978; gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ nhất; bị cáo có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang mang thai và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 04 giờ 20 phút ngày 21/01/2021, Tổ công tác Công an xã L phối hợp với Công an xã D thuộc Công an huyện K làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn. Khi đến trước cửa quán bún ngan tại đường 39, thuộc xã D, huyện K, Hà Nội phát hiện xe ô tô taxi BKS: 30F415.88 do anh Phạm Khắc Tuất, sinh năm 1991; trú tại: Số nhà 32 ngách 12/98 Nguyễn Ngọc Nại, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội điều khiển chở Phạm Thị T, sinh năm 1997; HKTT: Thôn 5, xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, quá trình kiểm tra đã phát hiện trong chiếc bốt (giày cao cổ) bên chân phải của T đang đi có 01 gói nhỏ bằng nilon trong suốt, bên trong có 05 viên nén màu hồng đều khắc chữ “No Hear”. T khai nhận 05 viên nén màu hồng đều là ma túy tổng hợp, T mua của H có tài khoản Facebook “Hàn Khánh H” mang đi bán cho khách để kiếm lời. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa đối tượng về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Phạm Thị T: 01 gói nhỏ bằng nilon, bên trong có 05 viên nén màu hồng đều có khắc chữ “No Hear”; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim liên lạc số 0983280997, số Imeil: 353098101253729, đã qua sử dụng, không kiểm tra máy bên trong.

- Thu giữ của Phạm Khắc Tuất: 01 điện thoại di động Galaxy Note 8 nhãn hiệu sam sung, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A31 màu đen; 01 ô tô con nhãn hiệu Huynhdai màu trắng BKS: 30F-41588; 01 bộ chìa khóa xe ô tô; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 3655905; 01 giấy phép lái xe ô tô Phạm Khắc Tuất; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 523591; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã triệu tập lấy lời khai của Nguyễn Thị H, thu giữ của H: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng lắp sim liên lạc số 0961359971.

Tại Kết luận giám định số 1028/KLGĐ-PC09 ngày 27/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 05 viên nén màu hồng trên mặt mỗi viên có khắc chữ “No Hear” thu giữ của Phạm Thị T đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 2,18 gam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Thị T và Nguyễn Thị H khai nhận: Khoảng 01 giờ ngày 21/01/2021, T đang ở phòng 301 số 52 ngách 402/42 Mỹ Đình, Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì nhận được điện thoại của L (là bạn T, không rõ nhân thân) có tài khoản Facebook là “Nấm Nùn” liên lạc qua ứng dụng Facebook Messenger để nhờ T đưa chị của L từ Nha Trang, Khánh Hòa ra chơi. T đồng ý. Một lúc sau, T nhận được tin nhắn giới thiệu là bạn của L và nhờ T mua giúp 05 viên ma túy kẹo giá 2.700.000 đồng. T đồng ý và sử dụng tài khoản Facebook của mình là “Phương T” liên hệ với tài khoản Facebook “Hàn Khánh H” của Nguyễn Thị H, sinh năm 2000; HKTT: xóm T, xã S, huyện Y, Thái Nguyên (là bạn T) hỏi mua 05 viên ma túy tổng hợp với giá 2.250.000 đồng và phí vận chuyển là 200.000 đồng. Nguyễn Thị H đồng ý. H khai liên hệ với đối tượng Lê Minh Tuấn, sinh năm 1997; HKTT: Thôn Trung Phụ Ngoài, xã Tân Hưng, huyện Lạng Giang, Bắc Giang mua 05 viên ma túy với giá 2.200.000 đồng để bán cho T. H bảo T chuyển tổng số tiền 2.450.000 đồng vào tài khoản 0000107100905 Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội của Lê Quang Thạch, sinh năm 2000; trú tại: Thôn Mạch Lũng, xã Đại Mạch, huyện Đông Anh, Hà Nội (là bạn trai H). T đã sử dụng dịch vụ Internet banking chuyển số tiền 2.450.000 đồng cho H vào số tài khoản trên. Việc giao dịch mua bán ma túy và chuyển tiền giữa T và H thì anh Thạch không biết. Sau khi nhận được tiền của T, H sử dụng dịch vụ Internet banking để chuyển 2.200.000 đồng cho Tuấn (gồm 2.000.000 đồng tiền mua ma túy và 200.000 đồng tiền ship), H hưởng lợi 250.000 đồng. Sau khi chuyển tiền xong, có 01 nam thanh niên lái xe ôm công nghệ (không rõ BKS, không rõ tên tuổi địa chỉ) đến chỗ ở của T và giao cho T một vỏ hộp bánh cá trong đó có 5 viên nén là ma túy. Sau khi nhận ma túy, T nhắn tin cho người phụ nữ bạn của L báo đã mua được ma túy, người phụ nữ đó bảo T mang ma túy đến đường 39 thuộc xã D, huyện K, Hà Nội để giao nhận và trả tiền, đồng thời gửi cho T số điện thoại 0961809459 để liên lạc. T gọi taxi công nghệ BKS: 30F-41588 do anh Phạm Khắc Tuất điều khiển chở sang điểm hẹn ở đường 39 thuộc xã D, huyện K, Hà Nội để giao ma túy. Khi T vừa xuống xe ô tô thì bị lực lượng Công an phát hiện kiểm tra, bắt giữ cùng vật chứng. Đây là lần đầu tiên T nhờ H mua ma túy và đây là lần đầu tiên H mua ma túy của Tuấn để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ.

Ngày 21/01/2021, Cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở Phạm Thị T tại phòng 301 số 52 ngách 402/42 Mỹ Đình, Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội nhưng không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Đối với đối tượng Lê Minh Tuấn là người bán ma túy cho H và T, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã ủy thác điều tra cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lạng Giang, Bắc Giang để triệu tập lấy lời khai nhưng hiện nay Tuấn không có mặt tại địa phương. Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã tách tài liệu liên quan đến Tuấn để tiếp tục điều tra. Khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định.

Đối với anh Phạm Khắc Tuất, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã trao trả lại toàn bộ tài sản đã thu giữ của anh Tuất. Anh Tuất đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Đối với phụ nữ tên L là người liên hệ mua ma túy, người phụ nữ mua ma túy của T và thanh niên nam giao ma túy cho T, hiện không xác định được nhân thân nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện K không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với Lê Quang Thạch, quá trình điều tra xác định Thạch không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của T và H. Do vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K không xử lý Thạch là đúng quy định pháp luật.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim liên lạc số 0983280997, số Imeil: 353098101253729, đã qua sử dụng thu giữ của T và đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng lắp sim liên lạc số 0961359971 thu giữ của Nguyễn Thị H đều sử dụng để liên hệ mua bán ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 148/CT-VKSGL ngày 07 tháng 09 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Thị T và Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2021; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo H.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Phạm Thị T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ bị cáo Nguyễn Thị H.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải truy nộp số tiền thu lời bất chính từ việc bán ma túy là 250.000 đồng.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 21/01/2021, vì có khách hỏi mua 05 viên ma túy tổng hợp với giá 2.700.000 đồng nên Phạm Thị T đã nhờ Nguyễn Thị H mua ma túy với giá 2.450.000 đồng để bán kiếm lời. H khai liên hệ mua ma túy của Lê Minh Tuấn với số tiền là 2.200.000 đồng, hưởng lợi 250.000 đồng. Sau khi nhận 05 viên ma túy loại MDMA có khối lượng 2,18 gam từ lái xe ôm Grap, T gọi xe ô tô taxi chở đến địa chỉ trước quán bún ngan tại đường 39 thuộc xã D, huyện K, Hà Nội để giao ma túy cho khách thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ quả tang cùng vật chứng. Ngày 21/01/2021 là lần đầu tiên T và H mua ma túy để bán kiếm lời thì bị lực lượng Công an phát hiện. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. MDMA là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm ma tuý. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý nhưng vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về đồng phạm: Đây là một vụ án hình sự mang tính chất đồng phạm giản đơn do hai bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, trong đó: Phạm Thị T là người khởi xướng; Nguyễn Thị H là người thực hành. Nên các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, song về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó.

[3.3] Về nhân thân các bị cáo:

Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; đây là lần đầu các bị cáo bị truy tố, xét xử. Bị cáo Nguyễn Thị H là phụ nữ có thai. Như vậy, bị cáo T có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; bị cáo H có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên toà thể hiện: Các bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo T là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS Max màu vàng, lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Phạm Thị T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ bị cáo Nguyễn Thị H là phương tiện liên quan liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Thị H đã nhận từ T số tiền mua ma túy với là 2.450.000. H đã mua ma túy và thanh toán cho Lê Minh Tuấn với số tiền là 2.200.000 đồng, được hưởng lợi 250.000 đồng. Do vậy, buộc bị cáo H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 250.000 đồng theo quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Các bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng Lê Minh Tuấn là người bán ma túy cho H và T, Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã ủy thác điều tra cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện Lạng Giang, Bắc Giang để triệu tập lấy lời khai nhưng hiện nay Tuấn không có mặt tại địa phương. Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã tách các tài liệu liên quan đến đối tượng Tuấn để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với phụ nữ tên L là người liên hệ mua ma túy, người phụ nữ mua ma túy của T và thanh niên nam giao ma túy cho T, hiện không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Phạm Khắc Tuất, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Lê Quang Thạch, quá trình điều tra xác định anh Thạch không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của T và H, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T và Nguyễn Thị H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Thị T 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2021.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2.4. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại MDMA, khối lượng còn lại là 1,740 gam (đã trừ trích mẫu giám định 0,440 gam), đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Phạm Thị T, chữ ký của Giám định viên và cán bộ Công an xã L do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng, lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Phạm Thị T.

3.3. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng lắp sim liên lạc, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ bị cáo Nguyễn Thị H.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 07/09/2021).

3.4. Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền 250.000 đồng thu lời bất chính từ việc bán trái phép chất ma túy.

Cơ quan điều tra Công an huyện K đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Phạm Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 155/2021/HS-ST

Số hiệu:155/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về