Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 152/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 152/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 144/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T, sinh ngày 03 tháng 9 năm 1983 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Xã HT, huyện TL, thành phố Hải Phòng; nơi ở: MHX, phường DHK, quận LC, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L; có vợ thứ nhất Nguyễn Thị VA (đã ly hôn), vợ thứ hai Dương Thị Diễm T, có 04 con: Con lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 21 tháng 12 năm 2020, đến ngày 24 tháng 12 năm 2020 chuyển tạm giam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành T: Bà Hoàng Thị H, Luật sư Văn phòng luật sư TN thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 05 phút, ngày 21/12/2020 tại khu vực cổng khu du lịch Suối Khoáng Tiên Lãng, tổ công tác của phòng PC04 Công an thành phố Hải Phòng kiểm tra xe ô tô BKS 615.70 do Nguyễn Thành T điều khiển, đã phát hiện thu giữ:

Tại sàn xe ô tô 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 túi nilon chứa các viên nén màu xanh in logo “LV” và 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng; thu trong túi áo khoác của T 01 túi nilon bên trong có 05 viên nén màu xanh, 06 viên nén màu hồng và 01 túi chứa tinh thể màu trắng. Ngoài ra, còn thu giữ của T 1.100.000 đồng, 01 điện thoại di động, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Thành T và 01 xe ô tô BKS 15A 615.70. Cơ quan Công an khám xét khẩn cấp nơi ở của T không thu giữ đồ vật tài sản gì. Tại Kết luận giám định số 390/KLGĐ ngày 05 tháng 2 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng xác định vật chứng thu giữ của Nguyễn Thành T là các chất ma túy gồm 74,8506 gam MDMA và 40,3698 gam Ketamine.

Tại Cơ quan điều tra T khai: Khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 12 năm 2020 có một người gọi điện thoại giới thiệu tên là C, hỏi mua 40 gam Ketamine và 200 viên thuốc lắc, T báo giá là 850.000 đồng/1gam Ketamine, 180.000 đồng/1 viên thuốc lắc. C đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy tại cổng Khu du kịch Suối Khoáng Tiên Lãng. Khoảng hơn 12 giờ, T điều khiển xe ô tô mang ma túy vào Tiên Lãng để giao cho C, thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Về nguồn gốc số ma túy T khai mua thuốc lắc của D nhà ở đường tầu Cát Cụt, mua 02 lần, lần 1 D giao ở ngõ Lâm Tường, lần 2 D giao ở cổng Trường Cao đẳng y dược. Số Ketamine T khai mua của một người tên Th quê Hưng Yên, giao nhận ma túy tại khu vực cầu vượt Chợ Hàng. Mục đích của T là mua ma túy về để bán kiếm lời.

Tại bản Cáo trạng số 145/CT-VKS-P1 ngày 06 tháng 9 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố Nguyễn Thành T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận như nội dung bản Cáo trạng.

Sau phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm luận tội: Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, đồng thời phân tích hành vi, nhân thân của bị cáo: Từ ngày 21 tháng 11 năm 2020 đến ngày 21 tháng 12 năm 2020, Nguyễn Thành T đã nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy, với lượng ma túy Công an bắt quả tang là 74,8506 gam MDMA và 40,3698 gam Ketamine, nên bị cáo phạm điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phạm tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần, phạm điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt: Nguyễn Thành T từ 18 năm đến 19 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt tiền bị cáo khoảng từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng và đề nghị xử lý vật chứng.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu quan điểm: Luật sư không tranh luận về tội danh và điều luật Viện kiểm sát kết tội bị cáo. Luật sư nêu bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không phạm tội nhiều lần vì mua ma túy về chưa bán được cho ai, các đối tượng T khai mua ma túy của họ, nhưng chưa làm rõ được đối tượng nào bán. Điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên đề nghị không phạt tiền bị cáo.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Bị cáo mua ma túy của nhiều người, mang về vừa sử dụng, ai mua thì bán kiếm lời. Khoảng 11 giờ, ngày 21 tháng 12 năm 2020 bị cáo nhận được điện thoại của một người tên C hỏi mua 40 gam Ketamine và 200 viên thuốc lắc, bị cáo báo giá cho C 850.000 đồng/1gam Ketamine; 180.000/1 viên lắc, C đồng ý. Lúc này ở nhà bị cáo đã có sẵn 40 gam Ketamine, bị cáo gọi điện cho D ở đường tàu Cát Cụt mua 200 viên thuốc lắc, D báo giá 170.000 đồng/1 viên, hẹn giao tiền nhận hàng ở cổng trường Cao đẳng y đường Trần Nguyên Hãn. Đến 12 giờ, bị cáo mang theo 40 gam Ketamine và 11 viên thuốc lắc mua từ trước rồi điều khiển xe ô tô BKS 15A 615.70 đến gặp D lấy ma túy mang đi giao cho C, địa điểm giao hàng nhận tiền tại Cổng khu du kịch Suối Khoáng Tiên Lãng. Khi đang đợi C để giao ma túy thì bị bắt. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạm Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, bởi ma túy là hiểm họa của toàn cầu, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, đòi hỏi pháp luật phải nghiêm trị.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét:

[4] Tình tiết định khung hình phạt: Công an thu của bị cáo 02 chất ma túy, trong đó MDMA là 74,8506 gam; Ketamine 40,3698 gam, nên bị cáo phạm điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì lượng ma túy không đồng chất nên được quy đổi theo Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015: 40,3698 gam Ketamine tương đương với 10,09245 gam MDMA, cộng với 74,8506 gam MDMA = 84,94305 gam (để tính lượng kết tội bị cáo).

[5] Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo nhiều lần mua ma túy của nhiều người, với mục đích mang về vừa bán vừa sử dụng, nên bị cáo phạm tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên” phạm điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, chấp nhận quan điểm của Luật sư về tình tiết giảm nhẹ, nhưng không chấp nhận xử mức thấp hơn Viện kiểm sát đề nghị.

[6] Ngoài hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự là phạt tiền bị cáo, mức phạt khoảng 10.000.000 (mười triệu) đồng.

[7] Xử lý vật chứng: Chiếc xe ô tô bị cáo thuê của chị H, Cơ quan Công an xác minh đúng chủ sở hữu, đã trả cho chị H nên không xem xét giải quyết. Lượng ma túy còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy. Căn cước công dân và 1.100.000 (một triệu một trăm nghìn) đồng thu của bị cáo cần trả lại cho bị cáo. 01 điện thoại bị cáo dùng giao dịch mua bán ma túy, cần tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ điểm h khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Nguyễn Thành T 18 (mười tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 21/12/2020.

Phạt tiền bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy chất ma túy đã được niêm phong: 01 (một) phong bì niêm phong ma túy số 63 MT/PC09 và chữ ký của những người tham gia niêm phong;

01 (một) phong bì niêm phong vỏ bao bì có dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và chữ ký của Hoàng Văn Lương, Đỗ Quang Tuấn.

+ Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại được niêm phong trong phong bì có dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và chữ ký của những người tham gia niêm phong.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 (một) căn cước công dân mang tên Nguyễn Thành T.

(Đặc điểm chi tiết các vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 8 năm 2021 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng).

+ Trả lại cho bị cáo 1.100.000 (một triệu một trăm nghìn) đồng theo Ủy nhiệm chi lập ngày 24 tháng 8 năm 2021 tại Kho bạc Nhà nước Hải Phòng.

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 152/2021/HS-ST

Số hiệu:152/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về