Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2023/TLST- HS ngày 07/02/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2023/QĐXXST- HS ngày 09/3/2023 đối với bị cáo:

Vũ Trung Z. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 07/11/2001, tại thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Nơi cư trú: Tổ 8 phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Vũ Trung K, sinh năm 1976 và bà Trần Thị Minh L, sinh năm 1980. Vợ: Đinh Thị Kim N, sinh năm 2004. Có 01 con, sinh năm 2021;

Tiền án: Không.

Tiền sự: 02 tiền sự. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 69/QĐ XPVPHC ngày 24/6/2020 của Công an thị xã NL, phạt tiền 2.000.000,đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 72/QĐ-XPVPHC ngày 10/8/2020 của Công an thị xã NL, phạt tiền 2.500.000,đ về hành vi “Môi giới, giúp đỡ tạo điều kiện hoặc bằng hình thức khác giúp cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/11/2022, tạm giam từ 25/11/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Đến ngày 13/01/2023 được gia đình bảo lĩnh, hiện đang tại ngoại tại tổ 8 phường TT, thị xã NL, tỉnh yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Minh L, sinh năm 1980. Địa chỉ: Tổ 8, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

Đinh Thị Kim N, sinh năm 2004. Địa chỉ chỗ ở: Tổ 8, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái; HKTT: Bản L2, xã PS, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng Trần Quang H, sinh năm 2002, trú tại thôn CT, xã PN, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt tại phiên tòa.

Trần Anh T, sinh năm 2001, trú tại Tổ 4, phường PT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 10/2022, tại thành phố Hà Nội, Vũ Trung Z quen được người đàn ông tên D, biết D có thể mua được ma túy nên Z và D đã cho nhau số điện thoại và hẹn khi nào có ma túy thì D gọi điện để Z đến lấy. Khoảng 19 giờ ngày 06/11/2022 D gọi điện cho Z, hỏi Z mua bao nhiêu, Z trả lời mua 5.000.000 đồng. D đồng ý, bảo Z đến Hà Nội thì gọi cho D. Sau đó, Z đi xe khách NL về Hà Nội, đến nơi Z gọi điện thoại cho D thì D bảo Z đi đến bờ hồ Ngọc Khánh. Z thuê xe ôm đi đến bờ hồ, gọi điện cho D thì D không gặp mặt mà chỉ dẫn Z cứ đi quanh bờ hồ khi nào thấy một cột mốc có gói giấy ăn thì lấy gói giấy đó bên trong có “Kẹo” và “Ke”, rồi để số tiền 5.000.000 đồng lại đó. Z làm theo lời D, đi bộ một đoạn thì thấy trên một cột mốc ven hồ có gói giấy ăn, Z cầm gói giấy lên và đoán được trong đó có ma túy nên đã cất vào túi quần và để lại đó số tiền 5.000.000 đồng. Sau đó, Z ra bến xe, đi xe khách về nhà, bỏ gói giấy ăn ra kiểm tra, thấy bên trong có 02 túi nilon, túi thứ nhất có 05 viên nén hình đa giác màu xám là ma túy tổng hợp thường gọi là “Kẹo”; túi thứ hai có chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy tổng hợp thường gọi là “Ke”. Z sử dụng một ít ma túy dạng “Ke”, chia số còn lại ra thành 03 gói nhỏ rồi cất vào một hộp giấy bìa cát tông để trên bàn trang điểm trong phòng ngủ của vợ chồng Z với mục đích để bản thân sử dụng và bán cho người khác.

Các lần Z bán ma túy đã chứng minh được, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 11/11/2022, Trần Quang H là bạn của Z gọi qua ứng dụng Messenger để hỏi mua 01 viên ma túy dạng “Kẹo”. Do cầm sẵn ma túy trong người nên Z đồng ý, hai người hẹn nhau đến khu vực đầu đường Kim Đồng, gần UBND phường TT, thị xã NL để trao đổi mua bán. Tại đây Z đã bán cho H 01 viên ma túy dạng “Kẹo” với giá 500.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 19/11/2022, Trần Anh T gọi điện thoại cho Z hỏi mua 01 viên ma túy dạng “Kẹo”. Z đồng ý và hai người hẹn nhau đến khu vực gần Trạm đăng kiểm xe cơ giới Miền Tây trao đổi mua bán. Tại đây Z bán cho Tú 01 viên ma túy dạng “Kẹo” với giá 500.000 đồng. Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 21/11/2022, một người nam giới gọi điện thoại cho Z hỏi mua ma túy và hẹn địa điểm mua bán tại khu vực cổng sân vận động cũ thị xã NL. Z đồng ý, đến điểm hẹn, khi gần đến nơi thì thấy có hai thanh niên đang đứng chờ, Z dừng xe lại nhưng chưa kịp bán ma túy thì tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Yên Bái phối hợp với Công an phường PT, thị xã NL đi đến, kiểm tra. Các đối tượng đã bỏ chạy, tổ công tác kịp thời khống chế được Vũ Trung Z, hai người còn lại chạy thoát. Quá trình kiểm tra Z đã tự giác lấy từ túi quần phía trước bên phải đang mặc giao nộp 02 túi nilon màu trắng đều có nẹp viền màu đỏ. Bên trong túi nilon thứ nhất có chứa 02 viên nén hình đa giác màu xám, Z khai là ma túy thường gọi là “Kẹo”; bên trong túi nilon thứ hai có chứa chất tinh thể màu trắng, Z khai là ma túy thường gọi là “Ke”. Z cất giấu hai loại ma túy trên nhằm mục đích để bán cho người khác thu lợi nhuận. Kiểm tra tạm giữ tại túi quần phía trước bên trái của Z 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của Z 01 xe mô tô màu sơn xanh đen bạc, nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 21K1 - 5xxxx, và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy số 014685 mang tên Vũ Trung Z.

Khám xét khẩn cấp đối với nơi ở, đồ vật của Vũ Trung Z. Kết quả: Thu giữ trong hộp giấy trên mặt bàn trang điểm trong phòng ngủ của Vũ Trung Z 02 túi nilon màu trắng nẹp kín một đầu, bên trong mỗi túi đều có chứa chất tinh thể màu trắng; tạm giữ trên mặt bàn trang điểm trong phòng ngủ của Z số tiền 3.000.000 đồng.

Ngoài ba lần bán ma túy nêu trên, Z còn khai: Khoảng 15 giờ ngày 09/11/2022, có người đàn ông tự giới thiệu tên là V nhà ở Ba Khe gọi điện cho Z hỏi mua 01 viên ma túy dạng “Kẹo”, Z bảo đang ở gần khách sạn Miền Tây thị xã NL, khi nào đến đó thì gọi cho Z. Một lúc sau thì V gọi lại bảo đang đứng ở trước cổng khách sạn, Z không nói gì mà tắt máy và lấy 01 viên ma túy dạng “Kẹo” cho vào một túi nilon nhỏ mang đến bán cho V với giá 500.000 đồng.

Tại các Kết luận giám định số 615/KL-KTHS ngày 29/11/2022 và số 614/KL-KTHS ngày 25/11/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái, kết luận:

- Các viên nén hình đa giác màu xám thu giữ của Vũ Trung Z có tổng khối lượng là 0,78 gam. 0,32 gam trích từ 0,78 gam các viên nén hình đa giác màu xám gửi giám định là ma túy; loại MDMA.

- Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Vũ Trung Z có khối lượng là 0,43 gam. 0,2 gam trích từ 0,43 gam chất tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Ketamine.

- Chất tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Vũ Trung Z có tổng khối lượng là 1,40 gam. 0,18 gam trích từ 1,40 gam chất tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Ketamine.(BL: 41,42).

Toàn bộ số tiền 3.000.000 đồng gửi giám định đều là tiền thật. Cáo trạng số 04/CT-VKS-NL, ngày 07/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã NL, đã truy tố Vũ Trung Z về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; các điểm r, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù. Áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 05 triệu đến 07 triệu đồng. Xử lý vật chứng và tài sản theo quy định của pháp luật. Trong đó, số tiền 3 triệu đồng trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đinh Thị Kim N. Tịch thu nộp ngân sách chiếc điện thoại Iphonne gắn kèm theo sim vì bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, xin được nhận lại các tài sản là số tiền 3 triệu đồng và chiếc điện thoại đã bị thu giữ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị được nhận lại tài sản là chiếc điện thoại và số tiền 3 triệu đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc kZ nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Vũ Trung Z đã thành khẩn khai nhận về hành vi mua bán trái phép chất ma túy mà mình đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám xét, Kết luận giám định, phù hợp với lời khai của những người làm chứng (là các đối tượng nghiện ma túy) và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vũ Trung Z mua hai loại ma túy tổng hợp là MDMA và Ketamine đem về vừa để bản thân sử dụng vừa để bán cho người nghiện khác. Cụ thể, Z đã bán cho Trần Quang H, Trần Anh T mỗi người một lần, đều với giá 500,000,đ. Lần thứ ba chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Ngoài ra, khi bị bắt Z còn cất giấu trên người 0,78 gam MDMA, 0,43 gam Ketamine, cất giấu tại nhà 1,40 gam Ketamine với mục đích vừa để bản thân sử dụng vừa để bán cho người khác.

Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Trung Z là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng, không những xâm hại đến chính sách độc quyền kiểm soát các chất ma túy của nhà nước mà còn là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng tình trạng nghiện ma túy, gia tăng tội phạm ma túy, cũng như các tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Tác động, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán chất ma túy là trái pháp luật nhưng vì vụ lợi vẫn cố ý thực hiện. Với các lần bán ma túy như trên, hành vi của bị cáo đã đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt tăng nặng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Vũ Trung Z là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo phạm tội nên phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Sau khi bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra bị cáo tự khai ra việc giao dịch mua bán ma túy với người tên D ở Hà Nội, tự khai ra các lần bán ma túy trước đó mà chưa bị phát hiện, ngày 31/01/2023 cung cấp thông tin cho Công an huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái bắt giữ và khởi tố 01 vụ với 05 đối tượng đánh bạc. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Người phạm tội tự thú", "Người phạm tội thành khẩn khai báo", "Người phạm tội đã lập công chuộc tội" quy định tại điểm r, s, u khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, được Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về nhân thân: Vũ Trung Z là người nghiện ma túy. Ngoài ra, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 14/QĐ-XPVPHC ngày 14/11/2018 của Công an thị xã NL, Vũ Trung Z bị phạt tiền 1.250.000,đ về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Đã chấp hành xong ngày 15/11/2018 và được xoá tiền sự. Theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 69/QĐ-XPVPHC ngày 24/6/2020 của Công an thị xã NL, Vũ Trung Z bị phạt tiền 2.000.000,đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Đã chấp hành xong ngày 03/3/2023, bị phạt thêm 970.000,đồng do nộp chậm và chưa được xóa tiền sự. Theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 72/QĐ-XPVPHC ngày 10/8/2020 của Công an thị xã NL, Vũ Trung Z bị phạt tiền 2.500.000,đ về hành vi “Môi giới, giúp đỡ tạo điều kiện hoặc bằng hình thức khác giúp cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong ngày 03/3/2023, bị phạt thêm 1.192.000,đồng do nộp chậm và chưa được xóa tiền sự. Như vậy, cho thấy Vũ Trung Z là người có nhân thân xấu nhưng sau khi bị khởi tố, điều tra, truy tố đã có thái độ tích cực sửa chữa sai phạm, chấp hành các quyết định xử phạt hành chính.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như trên, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Hình phạt tù cũng tạo môi trường, điều kiện để bị cáo cai nghiện ma túy có kết quả, đồng thời góp phần răn đe giáo dục phòng ngừa chung. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự đã quy định.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với động cơ vì vụ lợi nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ.

- 0,46 gam ma túy loại MDMA và 1,45 gam ma túy loại Ketamine hoàn lại sau khi lấy mẫu vật giám định được niêm phong trong một phong bì do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. 03 vỏ phong bì đã mở niêm phong và các túi nilon gói. Cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

- Số tiền 3.000.000 đồng. Quá trình điều tra (BL 106-108) và tại phiên tòa xác định số tiền này do bà Trần Thị Minh L (Mẹ đẻ của Z) đưa cho Đinh Thị Kim N (Vợ của Z) để chi tiêu sinh hoạt gia đình, không liên quan đễn việc phạm tội nên cần trả lại cho chị N quản lý sử dụng.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone số máy MWGH2LL/A số Siri G6TCT06PN70F, lắp sim số 0354.879.393, màu đồng, màn hình cảm ứng máy cũ đã qua sử dụng. Chiếc điện thoại này Vũ Trung Z đã sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách theo quy định của pháp luật.

- Với 2 lần bị cáo Vũ Trung Z đã bán ma túy cho Trần Anh T, Trần Quang H thu được tổng số tiền 1.000.000,đ. Đây là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu (truy thu) nộp ngân sách.

[6] Trong vụ án này:

- Vũ Trung Z khai nhận ngày 09/11/2022, tại khu vực cổng khách sạn Miền Tây, thị xã NL, Z bán cho người tên V 01 viên ma túy dạng “Kẹo” với giá 500.000 đồng. Ngoài lời khai của Z ra thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh và cũng không xác định được người có tên là “V”. Do đó, Cáo trạng xác định không đủ căn cứ để truy tố lần bán ma tuý này của Z là phù hợp.

- Vũ Trung Z khai nhận số ma túy mua của người đàn ông tên D ở thành phố Hà Nội nhưng không có địa chỉ, lý lịch cụ thể, sau khi mua bán ma túy xong Z đã xóa số điện thoại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ.

- Đối với Trần Anh T, Trần Quang H là những người đã mua ma túy của Vũ Trung Z để sử dụng, hành vi này không cấu thành tội phạm. Phòng Cảnh sát về ma túy Công an tỉnh Yên Bái đã xử phạt vi phạm hành chính các đối tượng mua ma túy là phù hợp với quy định của pháp luật.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 21K1 - 5xxxx và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Vũ Trung Z. Kết quả điều tra xác định, chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng Vũ Trung Z, việc Z sử dụng xe để đi bán ma tuý chị Đinh Thị Kim N (vợ Z) không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe và đăng ký xe mô tô cho chị Đinh Thị Kim N quản lý và sử dụng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Những đề nghị có căn cứ của Kiểm sát viên, bị cáo, người có quyền lợi liên quan như Hội đồng xét xử đã nhận định nêu trên, cần được chấp nhận. Đối với đề nghị của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Minh L và Đinh Thị Kim N về việc xin được nhận lại chiếc điện thoại Iphonne. Hội đồng xét xử thấy, mặc dù tiền mua điện thoại là tiền chung của vợ chồng (Z N) nhưng trong quá trình sử dụng, các thành viên trong gia đình và bản thân Z đều thừa nhận đây là phương tiện liên lạc của cá nhân Z (N sử dụng điện thoại khác gắn sim khác), Z sử dụng điện thoại này gắn sim riêng 035xxx, dùng nó để liên lạc mua ma túy của D và nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng nghiện khác. Vì vậy, việc tịch thu chiếc điện thoại nộp ngân sách là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Trung Z phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; các điểm r, s, u khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Vũ Trung Z 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Được khấu trừ 01 tháng 23 ngày đã bị tạm giữ, tạm giam (Từ 22/11/2022 đến 13/01/2023). Thời hạn tù còn lại là 06 (Sáu) năm 04 (Bốn) tháng 07 (Bẩy) ngày, tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Vũ Trung Z 5.000.000,đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy:

0,46 gam ma túy loại MDMA và 1,45 gam ma túy loại Ketamine hoàn lại sau khi lấy mẫu vật giám định được niêm phong trong một phong bì do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành. 03 vỏ phong bì đã mở niêm phong và các túi nilon gói.

- Tịch thu nộp ngân sách: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone số máy MWGH2LL/A, số Siri G6TCT06PN70F, lắp sim số 035xxx, màu đồng, màn hình cảm ứng máy cũ đã qua sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách (truy thu) số tiền 1.000.000,đ (Một triệu đồng) do Vũ Trung Z phạm tội mà có.

- Trả lại cho chị Đinh Thị Kim N (Vợ của Z) số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) được niêm phong trong một phong bì do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành.

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ Trung Z phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) để nộp ngân sách.

4. Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án trực tiếp có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về